TRẬN ĐÁNH THÁNG 3/75 QUÂN KHU I (Phần I)
Sau mấy tháng làm Địa Phương Quân "trấn thủ lưu đồn" tại xã Triệu Phong, Tây- Bắc tỉnh Quảng Trị, TĐ 9 TQLC di chuyển tới làng Gia Đẳng-Quảng Trị để dưỡng quân. Gia Đẳng là một làng đánh cá ven biển vì vậy khí hậu ấm áp khô ráo khiên chúng tôi thoải mái hơn là tại Triệu Phong. Tuy nhiên một tuần lễ sau, khoảng đầu tháng 3/1975 tôi nhận lệnh thuyên truyển về Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn TQLC và bàn giao chức Trung Đội Trưởng Quân Y Tiểu Đoàn 9 TQLC cho một bác sĩ mới ra trường.
Vì không thích về Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn TQLC và hơn nữa vì cảm nhận được tình hình chiến trận đã đến lúc căng thẳng, tôi tình nguyện về Đại Đội Quân Y Lữ Đoàn 258 TQLC. Tôi được tạm thời bổ nhiện làm y sĩ điều trị tại Lữ Đoàn này vào ngày 08/3/1975 mà không ngờ tôi sắp bước vào một cuộc gió tanh mưa máu đang ập đến toàn thể Quân Đoàn I.
Ngày 8-3-1975 tôi trình diện Đại Đội Quan Y Lữ Đoàn 258 TQLC, đại đội này đóng chung với bộ chỉ huy Lữ Đoàn 258 TQLC tại làng Mỹ Thủy- Quảng Trị. Làng Mỹ Thủy tọa lạc tại phía Nam Gia Đẳng mấy cây số. Cũng giống như tất cả các làng đánh cá ven biển tỉnh Quạng Trị, làng này có những hàng dương liễu yểu điệu trong gió, cát trắng, biển xanh hiền hòa, nước trong nhìn tận đáy,nếu không có chiến tranh thì nơi đây sẽ là một điểm du lịch nên thơ. Chỉ huy Đại Đội Quân Y là Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Lê Minh, dưới quyền ông là BS Nhi và BS Duy. Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258 là Đại Tá Nguyễn Năng Bảo, Lữ Đoàn Phó Trung Tá Huỳnh Văn Lượm, ông này là nguyên Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 9 TQLC của tôi.
Phòng thủ tỉnh Quảng Trị lúc đó, phía Bắc có Lữ Đoàn 369 TQLC, phía Tây có Lữ Đoàn 147 TQLC, phía Đông là Lữ Đoàn 258 TQLC. Ngày 8-3-1975 Trung Đoàn Bình Trị Thiên Cộng Sản Bắc Việt tấn công một vị trí của của Tiểu Đoàn 4 TQLC- Đồi 51 phía tây bắc Sông Bồ, đồng thời một lực lượng Việt Cộng khác uy hiếp ấp Hiền Lương khoảng 2 cây số tây bắc Mỹ Chánh. Sáng hôm sau, ngày 9-3-1975, Tiểu Đoàn 4 TQLC và Thiết Kỵ phản công, chỉ trong một buổi sáng hôm đó hai lực lượng Cộng Sản Bắc Việt bị đẩy lụi, chạy trốn về phía núi để lại hơn 100 xác chết cùng vũ khí, phe ta có 10 TQLC hy sinh. Chúng tôi đứng tại cổng Lữ Đoàn 258 TQLC xem Thiết Kỵ xuất quân buổi sáng, cứ tưởng sẽ có một trận đánh gây cấn không ngờ buổi trưa đã thấy họ đi về.
Ngày 13-3-1975 được tin Ba Mê Thuộc thất thủ, tôi buồn bực lên bộ chỉ huy Lữ đoàn thì gặp Trung Tá Lượm, ông mời tôi ăn trưa và tâm sự:
"Cái "chiến lược" đem 2 Sư Đoàn Tổng Trừ Bị ra Quân Khu I để giữ đất không khá được, Việt Cộng gom quân để đánh chỗ này chỗ khác mà Tổng Trừ Bị lại bị giam tại Quân Khu I cho nên ta mất Phước Long và Ba Mê Thuộc, đất QK I có mất một phần mà quân còn thì mình chiếm lại được, quân mất thì làm sao giữ đất!" rồi ông giải thích:
" Hai SĐ Dù và TQLC có hậu cứ tại Saigon và Thủ Đức nơi gần phi trường và hải cảng, nếu VC tập trung quân đánh ở bất cứ nơi nào tại Miền Nam thì chỉ vài ngày đến 1 tuần là cả 2 SĐ có thể tăng viện cho vùng đó, từ sau năm 1972 cả 2 Sư Đoàn Dù và TQLC bị giam tại Quân Khu I vì vậy khi VC đánh Phước Long tháng 12/74 và Ba Mê Thuộc 3/10/75 mình không có quân Tổng Trừ Bị tiếp viện cho nên mất 2 nơi này". Ông tiếp:
"Sử dụng Tổng Trừ Bị như Địa Phương Quân làm tinh thần binh sĩ sa sút vì xa nhà, hơn nữa Tổng Trừ Bị đang ở thế chủ động trên chiến trường thành thế bị động trên những cứ điểm mà địch biết rõ, và khi một đạo quân đã căng ra để giữ đất muốn rút đi tiếp viện một chỗ khác thì rất khó vì địch sẽ truy kích, cản đường nhiều khi không rút được, mình đã bị trúng kế “điệu hổ ly sơn” rồi"!.
Trung Tá Lượm còn nói về nhiều vấn đề khác nhưng không liên quan đến bài viết này, riêng câu "mình bị trúng kế điệu hổ ly sơn rồi" làm tôi suy nghĩ suốt 40 năm qua, không biết ai là kẻ tung kế này!?Trong những năm 1966, 1967,1968 Cộng Sản Bắc Việt đều mỗi năm tung quân ra quấy phá Quân Khu I. Chúng đã bị các đơn vị Tổng Trừ Bị Dù và TQLC từ hậu cứ tại Saigon và Thủ Đức tới Quân Khu I trong thế chủ động đánh đuổi vào rừng núi. Sau chiến thắng, Tổng Trừ Bị rút về hậu cứ để nghỉ-bổ xung quân số và sẵn sàng cho những trận chiến khác. Năm 1968 (Mậu Thân)chúng đánh lớn và thua lớn thiệt hại nặng nề-theo wikia.org , trong năm 1968 có 181.149 tên VC và CSBV bị giết, khiến chúng phải dưỡng quân 3 năm. Đến năm 1972 Cộng Sản Bắc Việt gom góp đám thanh niên mới lớn tại Miền Bắc rồi nướng trên 100.000 quân trong trận 1972 Mùa Hè Đỏ Lửa tại Miền Nam.
Tóm lại từ 1966 đến 1972 với chiến pháp Tổng Trừ Bị sẵn sàng tại hậu cứ chờ quân CSBV xuất đầu lộ diện bất cứ nơi nào tại Miền Nam VN thì ta mang quân Tổng Trừ Bị khỏe mạnh, trong thế chủ động đến tiêu diệt quân CSBV đang mệt mỏi, đã lộ diện và ở thế bị động. Chiến pháp này đã thành công, VNCH đã chiến thắng CSBV tại khắp mặt trận. Vì vậy muốn chiếm Miền Nam thì phải bó tay hai Sư Đoàn Dù và TQLC, điều này người bạn “đồng minh” Mỹ biết rất rõ.
Năm 1971, tên Kissinger bí mật đến Tầu, dọn đường cho năm 1972. Kissinger và Nixon qua thăm Trung Cộng chính thức, không biết chúng ăn bả gì của Tầu mà sau đó ngoài mặt Mỹ vẵn là đồng minh của VNCH nhưng sau lưng họ đã bí mật liên kết với Tầu Cộng và tay sai là CSBV để triệt hạ Miền Nam VN. Sự phản bội này đã dần dần được giải mã.Theo Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng trong chương “Mở Cửa Bắc Kinh, Đóng Cửa Saigon” của cuốn sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” thì từ năm 1971, sau khi qua Trung Cộng tên Kissinger đã xui Nixon bán đứng VNCH cho Trung Cộng và tay sai là CSBV . Khi Nixon sợ mất mặt nước Mỹ, tên Kissinger đã hiến kế: “Cứ đổ cho VNCH là bất lực và yếu kém (incompetence)”, từ đó chúng đã thực hiện dần dần kế hoạch làm suy yếu đồng minh VNCH.
Bước đầu tiên là giam 2 Sư Đoàn Dù và TQLC tại Quân Khu I, Tổng Trừ Bị VNCH đang ở thế chủ động biến thành bị động giữ đất trong các cứ điểm đã lộ rõ. Thật vậy, sau chiến thắng của VNCH trong Mùa Hề Đỏ Lửa, CSBV bị kiệt quệ, chúng đã phải ký Hiệp Định Paris 1973, Quân Khu I yên tĩnh, cớ sao lại phải giữ 2 Sư Đoàn Tổng Trừ Bị tại đây? Tổng Thống Thiệu, người có thẩm quyền điều động Tổng Trừ Bị và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (Tư Lệnh Quân Khu I) người nhận và có thể cũng là người đã yêu cầu giữ Tổng Trừ Bị tại Quân Khu I, là 2 người có liên quan, không biết trong bóng tối Người Mỹ có dính dáng gì đến quyết định này không?
Sau khi mất Phước Long và Ban Mê Thuột, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu họp với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I ngày 13-3-1975 và 19-3-191975 tại Saigon để tái phối trí lực lượng. Không ai biết rõ nội dung 2 buổi họp này,đã có nhiều bài viết về các buổi họp, nhưng không sát với thực tế, nên tôi đã lấy tin tức từ Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải là người gần với Tướng Trưởng nhất và Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, Tổng Trưởng Kế Hoạch và Cố Vấn cũa Tổng Thống Thiệu. Cả hai đều viết giống nhau, và theo 2 nhân chứng này thì Quân Khu I đã được tái phối trí như sau:
1- Quân Khu I trả Sư Đoàn Nhẩy Dù lại cho Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH.
2- Quân Khu I giữ lại Sư Đoàn TQLC để cùng với 3 Sư Đoàn Bộ Binh cơ hữu 1,2,3 và Biệt Động Quân- Thiết Kỵ co cụm tử thủ 3 cứ điểm Huế, Đà Nẵng, Chu Lai. Nếu vì lý do gì không giữ được cả 3 cứ điểm trên thì bằng mọi giá phải giữ Đà Nẵng.
Hồi ký của Đại Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng QL VNCH có viết về phiên họp ngày 19-3-1975 giữa Tổng Thống Thiệu và Trung Tướng Trưởng như sau:
Hồi ký của Đại Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng QL VNCH có viết về phiên họp ngày 19-3-1975 giữa Tổng Thống Thiệu và Trung Tướng Trưởng như sau:
"Tướng Trưởng trình bày kế hoạch với hai giải pháp:
Kế hoạch thứ nhất: nếu Quốc lộ 1 (QL 1) còn sử dụng được, quân ông sẽ rút từ Huế về Đà Nẵng và từ Chu Lai về Đà Nẵng;
Kế hoạch thứ hai: nếu QL 1 bị cắt, các lực lượng sẽ rút vào ba cứ điểm là Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng, nhưng Huế và Chu Lai chỉ là hai nơi tập trung quân để cuối cùng thì rút về Đà Nẵng bằng đường biển. Đà Nẵng sẽ là điểm phòng thủ chánh do bốn sư đoàn bộ binh và bốn liên đoàn BĐQ đảm nhận.”
Kế hoạch thứ nhất: nếu Quốc lộ 1 (QL 1) còn sử dụng được, quân ông sẽ rút từ Huế về Đà Nẵng và từ Chu Lai về Đà Nẵng;
Kế hoạch thứ hai: nếu QL 1 bị cắt, các lực lượng sẽ rút vào ba cứ điểm là Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng, nhưng Huế và Chu Lai chỉ là hai nơi tập trung quân để cuối cùng thì rút về Đà Nẵng bằng đường biển. Đà Nẵng sẽ là điểm phòng thủ chánh do bốn sư đoàn bộ binh và bốn liên đoàn BĐQ đảm nhận.”
Trong tinh thần trên, Sư Đoàn Nhẩy Dù rời Quân Khu I vào hạ tuần tháng 3/1975. Ngày 16-3-1975 Lữ Đoàn 369 TQLC rời Quảng Trị đến Thượng Đức Quảng Nam để thay thế Nhẩy Dù. Ngày 18-3-1975, Lữ Đoàn 258 TQLC trong đó có tôi rời Mỹ Thủy-Quảng Trị đến Nam Thừa Thiên để bảo vệ Quốc Lộ 1 Huế-Đà Nẵng.
PHÒNG THỦ CỨ ĐIỂM THỪA THIÊN- HUẾ:
Để viết phần này, tôi dựa vào tài liệu từ phỏng vấn và hồi ký của những người liên quan như Đại Tá TQLC Nguyễn Thành Trí-Lư Lệnh Lực Lượng Tây Bắc Huế, Wipekida Sư Đoàn 1 Bộ Binh VNCH, Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Ngọc Đỉnh Y Sĩ Trưởng Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh và phỏng vấn những người liên quan khác.
Lưu ý: tôi chỉ kể quân chính quy của 2 bên, không nói đến các lực lượng Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát của VNCH, các lực lượng Du Kích, Đặc Công của Cộng Sản Bắc Việt và từ đây sẽ viết tắt là CSBV.
Lực Lượng VNCH Tại Thừa Thiên-Huế:
1-Tây Bắc: Lữ Đoàn 147 TQLC chỉ huy bởi Đại Tá TQLC Nguyễn Thế Lương gồm các Tiêu Đoàn 3 TQLC,4 TQLC,5 TQLC, 1 Đại Đội Viễn Thám, Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC,Tiểu Đoàn 7 TQLC, Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân gồm 3 tiểu đoàn và 1 Đại Đội Viễn Thám, tất cả các lực lượng trên được chỉ huy bởi Đại Tá TQLC Nguyễn Thành Trí.
2-Tây Nam: Sư Đoàn 1 Bộ Binh gồm 4 trung đoàn và 1 Đại Đội Hắc Báo, 1 Đại Đội Trinh Sát. Các thành phần yểm trợ như 3 tiểu đoàn pháo binh 105 ly, 1 tiểu đoàn pháo binh 155 ly, Thiết Đoàn 7 Kỵ Binh.
3-Yểm trợ cho toàn mặt trận Thừa Thiên-Huế là Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh gồm Thiết Đoàn 20 Chiến Xa có 51 chiến xa M48 mới tinh, nên nhớ chiến xa M48 là khắc tinh của chiến xa CSBV T54. Thiết Đoàn 17 Kỵ Binh gồm khoảng 100 chiếc M113 và M41, các Tiểu Đoàn Pháo Binh 155 Ly.Các lực lượng kể trên được gọi là Quân Đoàn I Tiền Phương và được chỉ huy bởi Trung Tướng Lâm Quang Thi cũng là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I. Đây là 1 đạo quân thiện chiến hàng đầu của Quân Lực VNCH, đạo quân này sẽ đánh bại bất cứ 1 lực lượng CSBV nào.
4-Nam Thừa Thiên và Quốc Lộ 1:
-Liên Đoàn 15 Biệt Động Quân gồm các tiểu đoàn 60, 61, 94 BĐQ, Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 15 BĐQ đóng tại Phú Bài. Liên Đoàn này trải quân sâu về phía Tây cách Quốc Lộ 1 khoảng 5 cây số.
-Lừ Đoàn 258 TQLC gồm Tiểu Đoàn 1 TQLC và Tiểu Đoàn 8 TQLC ém quân ven QL1 từ Bắc Cầu Truồi đến Cầu Đá Bạc- Phú Lộc. Bộ chỉ huy Lữ Đoàn 258 TQLC đóng tại phía Bắc Sông Truồi,1 Đại Đội B Viễn Thám, Tiểu Đoàn trừ 1 Pháo Binh 105 Ly.
Lực Lượng CSBV Tại Thừa Thiên-Huế:
Lưu ý: Tôi chỉ kể quân chính quy-không kể du kích địa phương, đặc công.
Theo tài liệu Wikipedia CSBV thì lực lượng Chính Quy CSBV tấn công vùng Huế-Thừa Thiên gồm:
-Sư Đoàn 324 với 3 trung đoàn, Sư Đoàn 325 với 2 trung đoàn, 1 trung đoàn đã tăng phái cho mặt trận Ban Mê Thuột và yểm trợ cho cả 3 mũi tấn công Huế,Đà Nẵng, Quảng Nam có Lữ Đoàn Xe Tăng 203, Lữ Đoàn Pháo 164, Sư Đoàn Phòng Không 673.
TƯƠNG QUAN QUÂN SỐ CỦA HAI BÊN TẠI CHIẾN TRƯỜNG HUẾ-THỪA THIÊN:
Tôi chỉ kể những tiểu đoàn chính quy tác chiến, nên nhớ 1 tiểu đoàn VNCH quân số khoảng 500-600 binh sĩ.Tiểu Đoàn TQLC có quân số khoảng 700. Một tiểu đoàn CSBV quân số khoảng 300-400 binh sĩ.
- VNCH:Tổng cộng 24 tiểu đoàn tác chiến gồm:
Lữ Đoàn 147 TQLC, 4 tiểu đoàn.
Liên Đoàn 14 BĐQ, 3 tiểu đoàn.
Sư Đoàn 1 Bộ Binh, 4 trung đoàn. Mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn như vậy là 12 tiểu đoàn.
Lữ Đoàn 258 TQLC, 2 tiểu đoàn.
Liên Đoàn 15 BĐQ,3 tiểu đoàn.
Liên Đoàn 14 BĐQ, 3 tiểu đoàn.
Sư Đoàn 1 Bộ Binh, 4 trung đoàn. Mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn như vậy là 12 tiểu đoàn.
Lữ Đoàn 258 TQLC, 2 tiểu đoàn.
Liên Đoàn 15 BĐQ,3 tiểu đoàn.
- CSBV:Tổng cộng 15 tiểu đoàn gồm Sư Đoàn 324 có 3 trung đoàn mỗi trung đoàn 3 tiểu đoàn, Sư Đoàn 325 có 2 trung đoàn, mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn.
TRẬN ĐÁNH TRÊN QUỐC LỘ 1 HUẾ-ĐÀ NẴNG NAM THỪA THIÊN.
Từ phần này đến những đoạn sau, tôi viết dựa theo kinh nghiệm của chính tôi, phỏng vấn những quân nhân tham dự trận chiến thuộc Lữ Đoàn 258 TQLC và Liên Đoàn 15 BĐQ. Riêng với Thiếu Tá Đỗ Thanh Quang-Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 61 BĐQ và Đại Tá TQLC Nguyễn Năng Bảo-Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258 TQLC lúc đó- thì tôi đã phỏng vấn họ 10 năm trước, khi tôi viết bài “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi”.
Phía CSBV tôi dựa theo hồi ký của tên Thiếu Tướng Nguyễn Đức Huy lúc đó là Phó Tư Lệnh-Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 325 CSBV. Điều cần phải nêu ra là hồi ký của tất cả bọn cán binh CSBV đều được viết theo đơn đặt hàng của Ban Chính Huấn CSVN, nên có nhiều khoác lác bịa đặt, tôi chỉ lấy ra những phần hợp lý.
Ngày 18-3-1975, Lữ Đoàn 258 TQLC rời Mỹ Thủy- Quảng Trị. Đoàn xe dài đưa chúng tôi ra Quốc Lộ 1. Khi qua Cầu Mỹ Chánh thì được CSBV chào đón bằng mấy trái cối 82 ly, nhưng không có thiệt hại. Chúng tôi qua Huế mà lòng bồi hồi thương tiếc vì linh cảm rằng đây là lần cuối cùng. Địa điểm đóng quân mới của Lữ Đoàn 258 TQLC tại phía nam Tỉnh Thừa Thiên từ phía bắc Cầu Truồi trải dài đến Phú Lộc, theo Trung Tá Huỳnh Văn Lượm-Lữ Đoàn Phó thì Lữ đoàn có nhiệm vụ:
-Bảo vệ giao thông và tiếp tế trên Quốc Lộ 1 phía Nam Thừa Thiên.
-Làm thành phần cản hậu trong trường hợp Quân Đoàn I Tiền Phương rút về Đà Nẵng.
Cùng nhiệm vụ với Lữ Đoàn 258 TQLC có Liên Đoàn 15 Biệt Động Quân. Bộ chỉ huy đóng tại Phú Bài, các tiểu đoàn đóng sâu trong núi phía tây còn TQLC thì ém quân ven Quốc Lộ 1, tuyến phòng thủ từ bắc Sông Truồi đến Phú Lộc.
Tuyến phòng thủ của Lữ Đoàn 258 TQLC
Quân rút thì dân cũng chạy theo, người dân Quảng Trị-Huế đã có quá nhiều kỷ niệm đau thương với CSBV. Năm Mậu Thân 1968 CSBV đã chôn sống trên 5000 người dân Huế bao gồm cả đàn bà và học sinh. Năm 1972 CSBV đã xả súng tàn sát mấy ngàn dân Quảng Trị gồm thường dân, đàn bà trẻ em khi họ bỏ trốn khỏi vùng giao tranh trên “Đại Lộ Kinh Hoàng”. Chiến pháp của CSBV là “Tam Dân”- dùng dân lành làm bia đỡ đạn, dùng dân để lấy lương thực,dùng dân để lấy tin tình báo. Vì vậy, khi dân chạy trốn thì bị chúng khủng bố và tàn sát dã man.
Từ ngày 18-3-1975 đến ngày 21-3-1975, người dân Quảng Trị-Huế đã bỏ nhà cửa ruộng vườn, theo Quốc Lộ 1 chạy về Đà Nẵng. Họ dùng tất cả phương tiện xe hơi, xe gắn máy, xe đạp và đi bộ để chạy giặc đầy trên Quốc Lộ 1. Bất kể ngày đêm, không bỏ lỡ cơ hội các dàn đại pháo 130 ly của CSBV đã xả đạn không thương tiếc vào đoàn người. Nhiều người trúng đạn ngã gục nhưng những người phía sau vẫn hoàng loạn đạp lên những người xấu số để đi. Chính quyền địa phương Quân Đoàn I hầu như bỏ rơi họ. Tôi không thấy các toán y tế săn sóc sức khỏe cho dân, tôi cũng không thấy các toán an ninh cảnh sát thanh lọc lũ đặc công CSBV đang trà trộn trong dân để lọt vào Đà Nẵng. Lữ Đoàn 258 TQLC đã tự động làm công tác “dân sự vụ”. Các toán Quân Y săn sóc sức khỏe, cứu thương, cung cấp lương thực cho dân, các binh sĩ Lữ đoàn thì mai táng những người xấu số qua đời.
Quân Y Lữ Đoàn 258 TQLC săn sóc đồng bào trên QL1.Cầu Truồi trước khi bị QĐI phá.
TRẠN ĐÁNH:
Trước khi nói về trận đánh tôi xin làm một bản so sánh quân đội hai bên tại Mặt Trận Nam Thừa Thiên:
-CSBV:Sư Đoàn 325 có hai trung đoàn bộ binh bí số 18 và 101, (Trung Đoàn 95 đã tăng phái cho mặt trận Ban Mê Thuột) . Như vậy là 6 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn CSBV có quân số từ 300 đến 400. Tổng cộng CSBV có khoảng 2400 quân bộ binh.
-VNCH: 3 Tiểu Đoàn BĐQ, mỗi tiểu đoàn quân số khoảng 500, như vậy khoảng 1500 BĐQ. Hai tiểu đoàn TQLC, quân số khoảng 600- 700 cho mỗi tiểu đoàn. Như vậy là 1400 TQLC. Một đại đội viễn thám khoảng trên 100 TQLC. VNCH tổng cộng có khoảng 3000 Quân.
Theo binh thuyết thì lực lượng tấn công phải có quân số và hỏa lực gấp 3 lực lượng phòng thủ, nhìn bản so sánh trên ta đã thấy lẽ hơn thua rồi.
Từ ngày 21-3-1975, CSBV nổ súng tấn công tuyến của Liên Đoàn 15 BĐQ phía tây cách QL1 từ 3-5km. Chúng có gây một số thiệt hại cho BĐQ nhưng không chọc thủng được phòng tuyến này và chúng cũng không biết đằng sau BĐQ có Lữ Đoàn 258 TQLC ém quân. Riêng tuyến Cầu Đá Bạc-Phú Lộc có nguyên cả Tiểu Đoàn 8 TQLC bảo vệ. Vài nhóm quân CSBV cấp trung đội bị BĐQ đánh tan tác chậy dạt tới gần Quốc Lộ 1 đã bị TQLC tiêu diệt. Tại Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258 TQLC phía bắc Sông Truồi, tôi nhận được nhiều thương binh, đa số thương binh TQLC bị thương vì đạn pháo kích còn BĐQ bị thương do đạn súng bắn thẳng.
Sáng ngày 24-3-1975, Đại Úy Q… Trưởng Ban 2 Lữ Đoàn mang đến một tên tù binh CSBV. Tên tù binh ốm yếu vàng vọt bị thương tại chân cần tiểu giải phẫu. Khi y tá bầy ra bộ tiểu giải phẫu gồm dao kéo, kìm kẹp, kim chỉ, thằng CSBV hoảng hốt tưởng là tôi sắp tra khảo, nó quỳ xuống đất lạy như tế sao miệng lắp bắp “lậy quan xin quan tha cho con, con xin khai hết”. Theo lời khai, hắn là trung úy đại đội trưởng thuộc Trung Đoàn 101. Ngày 3-23-1975 thủ trưởng của hắn cho biết Phú Lộc đã được giải phóng, sai hắn mang quân đến tiếp thu. Khi đến gần vòng đai Phú Lộc thì bị phục kích (Tiểu Đoàn 8 TQLC) cả đại đội bị tiêu diệt. Hắn bị thương nhưng giả chết nên bị bắt làm tù binh.
Từ ngày 18-3-1975 đến 24-3-1975, CSBV pháo rất nhiều vào Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258 TQLC tại ven Quốc Lộ 1. Chúng pháo bằng Đại Bác Tầm Xa 130 Ly, không có súng cối. Điều này cho chúng tôi biết chúng đã bị chận từ xa quốc lộ ngoài tầm của súng cối.
Từ ngày 18-3-1975 đến 24-3-1975, CSBV pháo rất nhiều vào Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258 TQLC tại ven Quốc Lộ 1. Chúng pháo bằng Đại Bác Tầm Xa 130 Ly, không có súng cối. Điều này cho chúng tôi biết chúng đã bị chận từ xa quốc lộ ngoài tầm của súng cối.
Trận chiến tại Quốc Lộ 1 Nam Thừa Thiên có 3 đặc điểm sau đây:
1-Sáng ngày 23-3-1975, đài phát thanh CSBV loan tin chúng đã chiếm được Phú Lộc và cắt QL1 tại đây. Hình như có sự ước hẹn với nhau như một vở kịch nên liền sau đó đài BBC và VOA đồng loan tin y hệt như vậy. Hai đài này không có ký giả tại đây tại sao chúng lại loan tin thất thiệt? Chúng tôi liên lạc với Bộ Chi Huy Tiểu Đoàn 8 TQLC tại Phú Lộc thì được biết quân ta vẫn bình yên. Đây là một tin tuy không đúng sự thật nhưng đã gây đau thương cho Quân Đoàn I, vì nếu muốn rút Quân Đoàn I Tiền Phương về Đà Nẵng trên Quốc Lộ 1 thì phải qua Phú Bài, Cầù Trùồi, Cầù Đá Bạc, Phú Lộc. Cái tin “mất Phú Lộc” không hề được Quân Đoàn I kiểm chứng nhưng đã khiến Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I Ngô Quang Trưởng và Trung Tướng Tư Lệnh Phó Lâm Quang Thi quyết định rút Quân Đoàn I Tiền Phương qua ngả Thuận An để gây bao đau thương cho đạo quân thiện chiến này.
2-Xin nhắc lại “Cái tin thất thiệt CSBV chiếm Phú Lộc làm rung động cả Quân Đoàn I vậy mà quân đoàn đã không kiểm chứng” và đính chính để nâng cao tinh thần quân dân Vùng I Chiến Thuật.
3-Trong suốt trận chiến tại Nam Thừa Thiên, chúng tôi như một đạo quân bị bỏ rơi. Mặc dù đây là một trận đánh cấp sư đoàn, quan trọng đến sự sống còn của cả quân đoàn nhưng không có một cấp chỉ huy Quân Đoàn I nào đến thăm, không có một máy bay nào bay trên trời, không có ký giả chiến trường. Hoàn toàn không có ai, mặc dù Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258 TQLC trên Quốc Lộ 1 chỉ cách Huế có 20km, và cách Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn I tại Đà Nẵng 30 phút trực thăng. Ngay cả khi có tin “vịt” Phú Lộc thất thủ cũng không có cấp chỉ huy Quân Đoàn nào gọi máy hỏi thăm kiểm chứng, làm như mọi chuyện đã được an bài.
5 giờ sáng ngày 25-3-1975, Lữ Đoàn 258 TQLC được lệnh bỏ tuyến phòng thủ Quốc Lộ 1 phía nam tỉnh Thừa Thiên để rút về Đà Nẵng. Theo Trung Tá Lữ Đoàn Phó Huỳnh Văn Lượm thì lệnh này do đích thân Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh vì Cầu Truồi đã bị Công Binh Quân Đoàn I phá trước đó nên quân xa không sử dụng được. Chúng tôi được lệnh đi bộ.Chúng tôi ra đi trong lòng buồn bực vì đang chiến thắng mà phải rút đi, đồng thời cũng lo lắng cho quân bạn tại Thừa Thiên-Huế vì đoạn đường này là huyết mạch duy nhất để tiếp tế hoặc rút lui về Đà Nẵng của đạo quân Tiền Phương Quân Đoàn I. Cùng rút với TQLC có một số BĐQ của Liên Đoàn 15, tất cả quân xa và pháo binh TQLC đều bị bỏ lại sau khi phá hủy.
Đến Sông Truồi chúng tôi thấy Cầu Truồi đã bị phá. Cầu Truồi gồm 2 cầu, cầu sắt cho xe lửa đổ gục xuống sông, cầu cho xe hơi bị mìn thủng một lỗ lớn bằng 2 cái bàn. Để tránh pháo của CSBV, chúng tôi lội qua Sông Truồi nước trong vắt và chỉ sâu đến đầu gối. Cả Lữ Đoàn 258 TQLC đi bộ trên Quốc Lộ 1 qua Cầu Đá Bạc và Phú Lộc mà không thấy một tên CSBV nào và cũng không có một phát súng của CSBV bắn về phía chúng tôi. Qua khỏi Phú Lộc cả Lữ Đoàn được xe GMC Quân Vận đón, đoàn xe đưa chúng tôi qua Đèo Hải Vân rồi về đến Căn Cứ TQLC tại Non Nước Đà Nẵng khoảng 10 giờ tối cùng ngày 25-3-1975.
Viết đến đây chúng tôi lại có một thắc mắc mà suốt 40 năm không có câu trả lời. Chúng tôi đã giao tranh với Sư Đoàn 325 CSBV từ 18-3-1975 đến 25-3-1975 tại Nam Thừa Thiên mà không thấy chúng có chiến xa. Có thể vì địa thế núi rừng tại đây nên chúng không mang được chiến xa đến. Đơn vị chiến xa gần nhất là Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ VNCH gồm 51 chiếc M48 mới tinh và trên 100 chiếc M41, M113 của Quân Đoàn I Tiền Phương còn đơn vị chiến xa CSBV lúc đó còn tại Quảng Trị.
Như vậy tại sao phải phá Cầu Truồi? tôi nghĩ mãi mà chỉ thấy có 2 giả thuyết:
1-Cấp chỉ huy Quân Đoàn I quá hoảng hốt và không nắm vững tình hình chiến trường.
2-Cấp chỉ huy Quân Đoàn I vì một lý do gì không muốn Đoàn Quân Tiền Phương VNCH về Đà Nẵng với đầy đủ khí cụ và chiến xa vì nếu vậy thì cuộc chiến tại Quân Khu I sẽ kéo dài rất lâu…
Cách đây trên 10 năm tôi có gặp Thiếu Tá Đỗ Thanh Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 61 BĐQ tại Las Vegas-lúc đó ông chưa qua đời- ông cho biết:
Tối ngày 25-3-1975, Thiếu Tá Quang rút Tiểu Đoàn 61 BĐQ từ đồi 500 phía tây Quốc Lộ 1 về Phú Lộc. Từ đấy, Tiểu Đoàn 61 BĐQ đi ngược về Phú Bài-Huế rồi ra Thuận An. Ông có tả Cầu Truồi bị phá giống như tôi viết phía trên. Ông cho biết từ Phú Lộc đến Huế, đường đi an toàn không gặp CSBV. Khi đến Thuận An, đơn vị của ông mới gặp Quân CSBV. Như vậy trong ngày 25-3-1975 từ Phú Lộc TQLC xuôi nam về Đà Nẵng, BĐQ từ Phú Lộc lên Bắc tới Huế an toàn, vậy thì Quốc Lộ 1 Huế Đà Nẵng trong thời gian từ 18-3-1975 đến tối ngày 25-3-1975 đã không bị CSBV cắt đứt.
Đại Tá TQLC Nguyễn Năng Bảo, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258 TQLC lúc đó cũng đã khẳng định: “Quốc Lộ 1 Huế-Đà Nẵng cho đến ngày 25-3-1975 vẫn an toàn để rút Quân Đoàn I Tiền Phương về Đà Nẵng và Lữ Đoàn 258 TQLC có thể giữ đoạn đường này thêm nhiều tuần lễ nữa”.
Khi viết các dòng chữ kể trên, tôi đã tham khảo nhiều tài liệu về Trận Chiến Trên Quốc Lộ 1 Nam Thừa Thiên tháng 3-1975 của nhiều tác giả không tham chiến trong trận đánh này. Hầu hết đều lấy tài liệu của CSBV hoặc của Mỹ viết rằng Phú Lộc bị CSBV chiếm trong ngày 23-3-1975, tôi khẳng định là từ ngày 18-3-1975 đến ngày 25-3-1975 Cầu Đá Bạc và Phú Lộc được Tiểu Đoàn 8 TQLC bảo vệ không hề lọt vào tay quân CSBV. Nếu mất Phú Lộc thì Lữ Đoàn 258 TQLC trong đó có tôi đã không thể về Đà Nẵng trên Quốc Lộ 1 an toàn trong ngày 25-3-1975.
Tên tướng Nguyễn Đức Huy, tư Lệnh Phó Sư Đoàn 325 CSBV khi khoác lác viết rằng đã chiếm được Phú Lộc và 10 km Quốc Lộ 1 Nam Thừa Thiên vào ngày 23-3-1975 đã không biết rằng có 1 Lữ Đoàn 258 TQLC ém quân tại đây. Hắn còn lộng ngôn láo khoét là đã bắt được Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 61 BĐQ (Thiếu Tá Quang) trong ngày 3-23-1975.
Tên tướng Nguyễn Đức Huy, tư Lệnh Phó Sư Đoàn 325 CSBV khi khoác lác viết rằng đã chiếm được Phú Lộc và 10 km Quốc Lộ 1 Nam Thừa Thiên vào ngày 23-3-1975 đã không biết rằng có 1 Lữ Đoàn 258 TQLC ém quân tại đây. Hắn còn lộng ngôn láo khoét là đã bắt được Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 61 BĐQ (Thiếu Tá Quang) trong ngày 3-23-1975.
SỐ PHẬN CỦA QUÂN ĐOÀN I TIỀN PHƯƠNG.
Để viết đoạn này, tôi đã phỏng vấn Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải và trước đó Thiếu Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh TQLC khi tôi viết hồi ký ”Những Người Lính Bị Bỏ Rơi”, Đại Úy Chánh Văn Phòng Tư Lệnh TQLC. Ngoài ra, tôi cũng tham khảo hồi ký của Ông Nguyễn Tiến Hưng, Tổng Trưởng Kế Hoạch Và Phát Triển kiêm Cố Vấn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Hồi ký của Đại Tá TQLC Nguyễn Thành Trí lúc đó là Tư Lệnh Mặt Trận Tây Bắc Huế. Hồi Ký Của Thiếu Tá Phạm Cang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 TQLC. Hồi ký của các TQLC Phan Văn Đuông, Cao Xuân Huy là các quân nhân tham dự trận đánh…
Nói chung thì tình hình Huế-Quảng Trị không sôi động. Quân CSBV bám sát quân ta nhưng đã không có trận nào lớn hơn cấp đại đội. Tại tuyến Tiểu Đoàn 7 TQLC có 5 chiếc T54 của CSBV bị M48 của ta bắn hạ 3 chiếc. 2 chiếc còn lại bỏ trốn. Ngoài ra có một đoàn tầu CSBV xâm nhập hải phận của ta, chúng bị M48 bắn và bỏ chạy, quân ta vô sự. Ngoài Huế , CSBV dùng pháo tầm xa 130Ly pháo kích.
Theo Đại Tá Nguyễn Thành Trí ,Tướng Tư Lệnh Lâm Quang Thi nhận thấy khó giữ được Huế và tin rằng Phú Lộc bị thất thủ do đó không dùng được Quốc Lộ 1 để lui quân về Đà Nẵng cho nên Tướng Tư Lệnh triệu tập phiên họp ngày 24-3-1975 tại Căn Cứ Hải Quân Thuận An lúc 14.30. Phiên họp này gồm: Trung Tướng Lâm Quang Thi, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Đại Tá Nguyễn Thành Trí Tư Lệnh Mặt Trận Tây Bắc Huế,Đại Tá Hy Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I Tiền Phương, Đại Tá Duệ Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, Trung Tá Chỉ Huy Căn cứ Thuận An, buổi họp này kéo dài không lâu và kết quả là:
1-Bỏ Huế-Quảng Trị.
2-Lực Lượng Tây Bắc Huế bỏ chiến xa, đại bác, chiến cụ nặng, trang bị nhẹ rút về Cù Lao Thuận An rồi xuôi Nam đến Cửa Tư Hiên. Sư Đoàn 1 Bộ Binh cũng bỏ chiến xa, đại bác, chiến cụ nặng, trang bị nhẹ rút về Cửa Tư Hiền.
3-Hải Quân và Công Binh Quân Đoàn I sẽ lập cầu phao tại Cửa Tư Hiền để Đạo Quân Tiền Phương băng qua, sau đó xuôi nam. Hải Quân sẽ bốc quân từ từ, phần còn lại sẽ quay trở lại Quốc Lộ 1 về Đà Nẵng.
Kế hoạch rút quân này được Chuẩn Tướng Điềm và Đại Tá Hy mang về Đà Nẵng trình Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Được chấp thuận và sau đó được mang về Thuận An lúc 17.30 cùng ngày 24-3-1975. Lệnh rút quân được thi hành lúc 18:00 ngày 24-3-1975.
Như vậy chỉ trong mấy tiếng đồng hồ từ 2.30PM đến 6PM ngày 24-3-1975 số phận của Đạo Quân Tiền Phương Quân Đoàn I đã được định đoạt.
Rút một đạo quân cấp quân đoàn cần sự điều nghiên tính toán và thiết kế của Bộ Tổng Tham Mưu, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia với sự hợp tác của Tư Lệnh Không Quân và Hải Quân.
Lệnh rút quân này đã được thiết kế bởi 2 ông tướng và mấy ông tá trong vòng vài tiếng đồng hồ nên có phần thiếu sót. Vứt súng bỏ chạy ra biển không phải là một cuộc rút quân, quân ta mạnh hơn địch và đang chiến thắng tại sao phải rút? Phiên họp ngày 24-3-1975 của Quân Đoàn I Tiền Phương chẳng qua chỉ là màn kịch để cấp chỉ huy Quân Đoàn I Tiền Phương bước lên tầu về Đà Nẵng một cách hợp pháp.
Lệnh rút quân này đã được thiết kế bởi 2 ông tướng và mấy ông tá trong vòng vài tiếng đồng hồ nên có phần thiếu sót. Vứt súng bỏ chạy ra biển không phải là một cuộc rút quân, quân ta mạnh hơn địch và đang chiến thắng tại sao phải rút? Phiên họp ngày 24-3-1975 của Quân Đoàn I Tiền Phương chẳng qua chỉ là màn kịch để cấp chỉ huy Quân Đoàn I Tiền Phương bước lên tầu về Đà Nẵng một cách hợp pháp.
Đà Nẵng chiều ngày 24-3-1975, sau khi họp với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng về lệnh rút quân của Quân Đoàn I Tiền Phương, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải bàn luận với ban tham mưu của ông gồm 3 vị Hải Quân Đại Tá mưu lược, đã nhận ra những điều bất lợi của lệnh rút quân này. Ông mời Thiếu Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh TQLC cùng đến gặp Trung Tướng Trưởng.
Buổi họp lúc 6 PM ngày 24-3-1975 tại Đà Nẵng có Thiếu Tướng Hoàng văn Lạc, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Phó Đề Đốc Thoại trình bầy lên Trung Tướng Trưởng những điều sau đây:
1-Vì thời gian cấp bách chỉ có 12 tiếng, vì Hải Quân đang bận lấy quân tại Chu Lai, vì thời tiết khí tượng xấu cho nên hải quân không thể tổ chức hoàn hảo để bốc 1 đạo quân trên 20.000 quân vào ngày 3-25-1975, và cũng vì khí tượng xấu và thời gian cáp bách nên hải quân và công binh không thể thực hiện được cầu phao qua Của Tư Hiền.
2-Vứt bỏ súng đại bác và chiến xa để bỏ Huế-Thuận An sẽ có một phản ứng giây truyền làm mất tinh thần binh sĩ không những tại Đà Nẵng, toàn thể Quân Khu I mà còn lan tới Quân Khu 3 và Quân Khu 4, hơn nữa khi ta rút bỏ Huế-Thuận An thì CSBV sẽ rảnh tay để mang 2 Sư Đoàn 324,325 cùng với súng đạn và chiến cụ chiếm được về đánh Đà Nẵng
Vì vậy Phó Đề Đốc Thoại đề nghị với Trung Tướng Trưởng:
1-Tử thủ Huế-Thuận An vì quân ta mạnh hơn CSBV tại đây. (Xin đọc phòng thủ Huế Thừa Thiên phần trên) Hải quân sẽ lo phần tiếp tế và yểm trợ vì ta vẫn làm chủ trên biển.
2-Nếu vì lý do gì phải bỏ Huế-Thừa Thiên thì tập trung quân gồm 4 trung đoàn của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, 2 liên đoàn 14,15 BĐQ, Lữ Đoàn 147 TQLC, Lữ Đoàn 1 kỵ binh với 51 chiếc M48 mới tinh và hàng trăm chiếc M41,M113 giữ thế chủ động đánh thẳng vào hậu cứ của 2 sư đoàn 325,324 CSBV rồi về Đà Nẵng trong tinh thần quyết chiến quyết thắng.
Tướng Bùi Thế Lân cũng nhiệt liệt đồng ý với Phó Đề Đốc Thoại. Tướng Lân cũng cho biết là ông có 1 Lữ Đoàn 258 TQLC đang ém quân trên Quốc Lộ 1 phía Nam Thừa Thiên sẵn sàng yểm trợ trận đánh, ông tiếp “đi phía biển tôi sợ sẽ mất hết”.
Trung Tướng Trưởng suy nghĩ một lúc rồi nói với 2 ông tướng là ông không thể thực hiện được kế hoạch này mà không cho biết lý do. Phó Đô Đốc Thoại kết luận: “có thể Trung Tướng Trưởng biết những điều chúng tôi không biết”
Trung Tướng Trưởng suy nghĩ một lúc rồi nói với 2 ông tướng là ông không thể thực hiện được kế hoạch này mà không cho biết lý do. Phó Đô Đốc Thoại kết luận: “có thể Trung Tướng Trưởng biết những điều chúng tôi không biết”
6 PM ngày 24-3-1975 Đạo Quân Tiền Phương được lệnh bỏ vị trí chiến đấu, bỏ vũ khí nặng, bỏ chiến xa đại bác, bỏ lương thực, trang bị nhẹ để đến điễm hẹn là Cù Lao Thuận An. Họ tin rằng khi lên tầu thì họ sẽ có lương thực, nước uống và đạn dược…Dọc đường, họ thấy chiến xa, xe cộ và đại bác vứt đầy đường.
8 AM ngày 25-3-1975 cả đạo quân đã có mặt tại Thuận An.
9:30 AM ngày 25-3-1975 họ được lệnh chờ tại chỗ vì không có cầu phao tại Cửa Tư Hiền.
Sáng 25-3-1975 tại Đà Nẵng, Thiếu Tướng TQLC Bùi Thế Lân ra lệnh cho Đại Úy Nguyễn Quang Đan, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh dùng trực thăng của Tướng Lân bay ra Thuận An gặp Đại Tá Nguyễn Thế Lương Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 147 TQLC để trao cho ông 1 lá thư kèm theo lời dặn “tìm ra Quốc Lộ 1 mà đi”.
Đại Úy Đan còn bay đi và về Thuận An-Đà Nẵng thêm 2 lần nữa để tiếp tế cho Lữ Đoàn 147 TQLC. Trên đường về Đà Nẵng lần thứ 3 ông đã cứu được Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh khi trực thăng của Tướng Điềm trục trặc máy trên đường về Đà Nẵng bị rơi trên Quốc Lộ 1.
Đại Úy Đan còn bay đi và về Thuận An-Đà Nẵng thêm 2 lần nữa để tiếp tế cho Lữ Đoàn 147 TQLC. Trên đường về Đà Nẵng lần thứ 3 ông đã cứu được Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh khi trực thăng của Tướng Điềm trục trặc máy trên đường về Đà Nẵng bị rơi trên Quốc Lộ 1.
9.30 AM ngày 25-3-1975 tại Dinh Độc Lập, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng Tổng Trưởng Kế Hoạch kiêm Cố Vấn Tổng Thống họp Nội Các và Hội Đồng An Ninh Quốc Gia với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trước mặt mọi người Tổng Thống Thiệu gọi cho Trung Tướng Trưởng tại Đà Nẵng, sau đây là nguyên văn cuộc đối thoại:
“Sau khi Tướng Khuyên trình bày về tình hình QK I và II, Tổng thống Thiệu nhấc máy điện thoại gọi Tướng Trưởng hỏi xem “có giữ được Huế hay không”. Rồi ông nhắc lại câu trả lời từ đầu giây bên kia:
Trung tướng Trưởng: "Nếu có lệnh, thì giữ."
Tổng thống Thiệu: "Liệu giữ được bao lâu?"
Trung tướng Trưởng: "Ngày một ngày hai."
Tổng thống Thiệu: "Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ."
Tổng thống Thiệu: "Liệu giữ được bao lâu?"
Trung tướng Trưởng: "Ngày một ngày hai."
Tổng thống Thiệu: "Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ."
Trở lại Thuận An vào cùng thời điểm của phiên họp nội các tại Dinh Độc Lập, lúc 9.30 AM ngày 25-3-1975, Đội Quân Tiền Phương được lệnh chờ tại chỗ để tầu hải quân vào đón vì không có cầu phao tại Cửa Tư Hiền.Theo hồi ký của những Mũ Xanh Lữ Đoàn 147 TQLC thì trước mặt họ có rất nhiều tầu hải quân nhưng không có chiếc tầu nào vào đón. Giải thích lý do tầu không vào lấy quân được, Phó Đô Đốc Thoại cho biết “vì sương mù, vì biển động, vì sóng ngầm”.
Chiều ngày 25-3-1975,quân du kích Việt Cộng bắt đầu truy kích. Từ những bụi cây, mô cát chúng tác xạ vào đoàn quân trên bãi cát trống trải. Với số lượng đạn ít ỏi mang theo, đạo quân Mũ Xanh vẫn anh dũng chiến đấu chống trả.
Sáng ngày 26-3-1975, có 1 chiếc LCU liều mạng vào cứu được thương binh, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 147 TQLC và khoảng vài trăm binh sĩ. Chiếc LCU này cũng bị trúng 1 hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 làm Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Nguyễn Thế Lương bị thương. Chiếc LCU thứ hai bị mắc cạn và từ đó không có tầu nào vào đón. Các chiến sĩ Mũ Xanh tiếp tục chiến đấu cho đến rạng sáng ngày 27-3-1975. Sau khi uống những giọt nước cuối cùng, bắn nhưng viên đạn cuối cùng và ném quả lựu đạn cuối họ mới chợt nhớ là phải dành cho riêng họ 1 quả lựu đạn. Đây là tâm sự của một TQLC MX Đoàn Văn Tuất thuộc Lữ Đoàn 147:
“MX Đoàn Văn Tuấn viết:
“MX Đoàn Văn Tuấn viết:
“Một mùa đại giỗ nữa của gia đình anh em Mũ Xanh lại đến. Đã trên bao năm trôi qua mà sao vẫn nhớ mãi cái cảnh những người lớn chơi trò trẻ con!
Họ ngồi quây quần bên nhau, úp lá khoai môn lên trái mãng cầu. Những lời bình thản:
“Ê, từ từ đã mày, chờ thằng Toàn đang chạy đến tham gia kia kìa.”
Rồi sau đó... “bùm”!!!
Trời ơi! Đó là thực tế của bạn bè anh em chúng tôi, những người lính Mũ Xanh kiêu hùng nhưng họ đã phải đi nhặt những viên đạn để chống trả với quân thù! Dùng hàm răng làm vũ khí và sau cùng thì đành trở về với tuổi thơ, ngồi xúm lại trên bãi cát trắng bờ biển Thuận An miền Trung thơ mộng.
Trời vẫn xanh, biển vẫn rì rào lời mời gọi. Đường về! Ôi quá xa.
“Bùm,” những thân người đổ vật ra! Anh em ta đã về nhà, về với đất mẹ thân yêu. Một thực tế mà trên thế giới ít một nước nào có. Sự tự sát tập thể không khác gì với những huyền thoại của những người võ sĩ đạo của xứ Phù-Tang. Tinh thần bất khuất ấy vẫn sống mãi trong ký ức những người còn lại.
Hôm nay ngồi đây, tôi viết những dòng này gửi đến các anh, đến bạn bè, những người lính MX năm xưa để chúng ta cùng cúi đầu dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ những người đã nằm xuống tháng 3, tháng gió lớn của gia đình Mũ Xanh.
Còn đây là tâm sự của MX Cao Xuân Huy trong Tháng Ba Gẫy Súng:
“Ngày 26 tháng Ba là ngày Người Cày Có Ruộng.
Ngày 26 tháng Ba là ngày cả một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị khoảng một đại đội du kích Việt Cộng bắt sống.
Chuyện không bao giờ tin được đã xảy ra.”
Ngày 26 tháng Ba là ngày cả một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị khoảng một đại đội du kích Việt Cộng bắt sống.
Chuyện không bao giờ tin được đã xảy ra.”
Như vậy thì rạng sáng ngày 27-3-1975 toàn thể Đạo Quân Tiền Phương Quân Đoàn I đã tan rã trên Bãi Thuận An,và cũng từ đó không ai còn nghe tên Sư Đoàn 1 Bộ Binh VNCH, một sư đoàn anh cả của QLVNCH.
Đặc điểm của cuộc rút quân của Quân Đoàn I Tiền Phương là:
1-Quân ta đang chiến thắng tại sao phải vội vã rút quân: theo Đại Tá TQLC Nguyễn Thành Trí Tư Lệnh Mặt Trận Tây Bắc Huế thì “chưa có một vị trí nào đã bị mất trên hành lang Sông Bồ hay Hiền Sĩ, Cổ Bi…Địch chưa hề thực hiện nổi mộng cắt ngang An Lỗ để ngăn đôi Quảng Trị-Huế” và hồi ký tôi đã viết ở phần trên tại mặt trận Nam Thừa Thiên quân ta đã đang toàn thắng!
2-Kế hoạch rút quân được thiết kế vội vã, thiếu sót, khiến Hải Quân và Công Binh không kịp chuẩn bị.
3-Các cấp chỉ huy cao cấp của Đạo Quân Tiền Phương đã bỏ rơi quân lính để về Đà Nẵng: Trung Tướng Lâm Quang Thi và Bộ Tham Mưu Tiền Phương bỏ về Đả Nẵng ngày 25-3-1975 bằng hải quân, Chuẩn Tướng Điềm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh cũng bỏ về Đà Nẵng trong ngày 25-3-1975 bằng trực thăng.
4-Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã được Thiếu Tướng Bùi Thế Lân và Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại báo trước là Hải Quân và Công Binh sẽ gặp khó khăn, và rút quân theo ngả Thuận An có thể sẽ mất hết, còn rút quân bằng đường bộ sau khi đánh tan hậu cứ của 2 sư đoàn CSBV là khả thi, mà Tướng Trưởng không nghe.
5-Trong lúc Đạo Quân Tiền Phương bị vây hãm tại Thuận An chỉ có Đại Tá TQLC Nguyễn Thành Trí còn ở lại ngoài khơi Thuận An, ngoài ra đã không có một cấp chỉ huy cao cấp của Quân Đoàn I nào, từ Trung Tướng Trưởng đến Trung Tướng Thi, Đại Tá Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I bay thị sát mặt trận để trực tíếp tìm phương cách cứu nguy cho Đạo Quân Tiền Phương.
6-Không Quân-Hải Quân Quân Đoàn I còn nguyên vẹn nhưng đã không can thiệp cứu nguy. Theo Phó Đề Đốc Thoại thì vào thời điểm 24-3-1975 đến 27-3-1975, Hải Quân có sẵn 12 chiến hạm tại ngoài khơi Thuận An sẵn sàng yểm trợ hỏa lực nhưng không được lệnh và cũng theo Phó Đề Đốc Thoại thì tại Đà Nẵng Không Quân có trên 40 Oanh Tạc Cơ A 37 còn tốt khiển dụng, nhưng đã không được lệnh can thiệp để cứu Đạo Quân Tiền Phương. Tóm lại đạo quân này đã bị bỏ rơi.
7-Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không biết về lệnh rút bỏ Huế lúc 6 PM ngày 24-3-1975?, mãi đến 9.30 AM ngày 25-3-1975 trong phiên họp Nội Các và Hội Đồng An Ninh Quốc Gia khi Tổng Thống Thiệu gọi Trung Tướng Trưởng thì ông vẫn chưa biết, ông còn hỏi Tướng Trưởng “có giữ được Huế không?”.Tuy nhiên, đây là sự thật hay chỉ là màn dàn cảnh cho lịch sử thì không ai biết.
8- Nếu rút quân theo Quốc Lộ 1 chúng ta sẽ có thể mang về Đà Nẵng toàn thể Quân Đoàn 1 Tiền Phương gồm lính, chiến xa, đại bác, nếu may mắn quân CSBV chặn đường thì với địa thế trống trải, Hải, Không Quân VNCH còn nguyên vẹn, quân ta thiện chiến và đông hơn địch, chúng ta sẽ tiêu diệt bất cứ đạo quân nào chặn đường nào, và mang về tất cả đạo quân Tiền Phương để giữ Đà Nẵng một thời gian dài. Rút Quân bằng Hải Quân thì, nếu may lắm, cũng chỉ mang về Đà Nẵng quân lính và vũ khí cá nhân, còn chiến cụ nặng phải bỏ lại.
Còn tiếp Phần II
MX Phạm Vũ Bằng.
Trung Đội Trưởng Quân Y Tiểu Đoàn 9 TQLC.
Y Sỹ Điều Trị Lữ Đoàn 258 TQLC.
Y Sỹ Điều Trị Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn TQLC.
Đại Đội Trưởng Quân Y Lữ Đoàn 147 TQLC.
Trung Đội Trưởng Quân Y Tiểu Đoàn 9 TQLC.
Y Sỹ Điều Trị Lữ Đoàn 258 TQLC.
Y Sỹ Điều Trị Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn TQLC.
Đại Đội Trưởng Quân Y Lữ Đoàn 147 TQLC.
No comments:
Post a Comment