Tuesday, February 28, 2017

Chăn Gối với Kẻ Thù


Email In
Lời giới thiệu: Xin mời quí vị đọc một bài viết của một cựu Sỉ Quan Hoa Kỳ đã từng chiến đấu trên chiến trường Việt Nam, cựu Bộ Trưởng Hải Quân Hoa Kỳ và hiện là Thượng Nghị Sỉ Liên Bang của Hoa Kỳ. Quan điểm về cuộc chiến Việt Nam. Thú thật, cho đến bây giờ mới thấy một người Mỹ trí thức có đầy đủ hiêu biết về cuộc chiến Việt Nam đã viết một bài chân thật, rất đáng kính trọng và rất đáng đưa vào lịch sử của Hoa Kỳ để cho con cháu Hoa Kỳ được hiểu rỏ hơn cuộc chiến Việt Nam mà trước đây những kẻ viết lịch sử Hoa Kỳ đã thiếu dữ kiện sống để viết - THG

Chăn Gối với Kẻ Thù / Sleeping With the Enemy
Author: James Webb, THG chuyển ngữ Source: Bất Khuất Reposted on: 2017-02-28
Tác giả James Webb, cựu chiến binh với huân chương cao quý trong chiến tranh Việt Nam, cựu nghị viên tiểu bang Virginia, người khinh thường chính sách của chính quyền Washington.
Biết giải thích như thế nào với những đứa con của tôi rằng khi tôi mười mấy, đôi mươi, những tiếng nói ồn ào nhất của những người cùng thời lại nhằm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để xây dựng lại một xã hội dựa theo quan điểm đầy tự mãn của họ. Giờ đây nhìn lại, ngay cả chúng ta, những người đã trải qua giai đoạn này, cũng không hiểu được tại sao lại có những kẻ với trình độ học vấn cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm những con vi khuẩn nầy.
Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa thu năm ấy mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng nghị sĩ. Đại đa số những dân cử chân ướt chân ráo này đã tranh cử dựa trên cương lĩnh của Mc Govern. Nhiều người trong số họ được xem như những ứng viên yếu kém trước khi Nixon từ chức, vài người không xứng đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với mẹ.
Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate nầy diễu hành vào thành phố với một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ: chấm dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào cho chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt Nam. Không nên lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người lính Mỹ cuối cùng đã rời Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm không có một người Mỹ nào bị tử trận.
Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh gục nền dân chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam.


Harold Ickes / Bill Clinton
Phụ tá sau này của Nhà Trắng Harold Ickes và nhiều người khác trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chính” – có một lúc được giúp đỡ bởi một người tuổi trẻ nhiều tham vọng Bill Clinton – làm việc để cắt toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam.


Jane Fonda và John Kerry, hai tên phản chiến chủ bại, giúp Cọng Sản bành trướng trên thế giới
Những đồng minh của họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống cộng, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị Bắc Việt được khối Sô Viết yểm trợ.
Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí tử xuống các nước Đông Dương không cộng sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia tăng quân viện cho Việt Nam và Cam Bốt của tổng thống Gerald Ford. Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ. Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam, đến tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo, 189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam và Cam Bốt.
Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn những lời lên án các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia nầy dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân biểu Christopher Dodd , tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của các đồng viện, lên giọng đầy điệu bộ “gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục chữ nghĩa… Tặng vật lớn nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này là chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”


Christopher Dodd / Thomas Downey
Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai tháng kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh cáo về tội ác diệt chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần ba dân số của quốc gia này, như sau, “ chính phủ cảnh cáo rằng nếu chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu. Nhưng những cảnh cáo cho việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho việc kéo dài việc tắm máu hiện nay.
Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã được đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ rút quân – tương tự như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc nếu miền Bắc tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Paris 1973. Bây giờ thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất định khủng khiếp, trong lúc khối Sô Viết vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc Việt.
Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần, tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để đối phó với những thiếu thốn trang thiết bị cần thiết, quân miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập tức phát động ra cuộc tổng tiến công. Bắt giữ được nhiều đơn vị bị cô lập, quân miền Bắc tràn xuống vùng đồng bằng trong vòng có 55 ngày. Những năm về sau tôi phỏng vấn các người lính miền Nam Việt Nam còn sống sót trong các cuộc giao tranh, nhiều người trải qua hơn chục năm trong các trại tập trung của cộng sản sau khi cuộc chiến chấm dứt. Điệp khúc này không bao giờ chấm dứt: “Tôi không còn đạn dược.” “Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày.” “Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi.” “ Tôi phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được nữa những lời kêu gọi xin tiếp viện.”
Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để chúng ta đang đương đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và những người cùng quan điểm chính trị với họ, đây là một tháng đen tối và tuyệt vọng.
Những khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công của Bắc Quân là những khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không phải đơn thuần là những hình ảnh truyền hình. Những thân người xoay trong không gian như những bông tuyết, rơi xuống chết thảm khốc sau khi đeo bám tuyệt vọng vào thân trực thăng hay phi cơ, có thể là những người chúng ta quen biết hoặc từng giúp đỡ. Ngay cả đối với những kẻ không còn niềm tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản, đây không phải là cách để chấm dứt cuộc chiến.
Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định của người cộng sản, những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách nhiệm của mình trong sự sụp đổ này bằng những phê phán quân đội Nam Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng. Ở trung tâm Luật Khoa của đại học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc Việt trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong hiệp định Paris 1973, và tiếng xe tăng của Bắc Quân trên đường phố Sài Gòn được xem như là một cái cớ để thực sự ăn mừng.
Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997, nhưng thực ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của những cố gắng không ngừng nghỉ của phong trào phản chiến trong những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho chương trình “Crossfire” của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc chiến rõ ràng là có thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi chiến lược của mình, ứng cử viên tổng thống năm 1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, bình luận, “Anh không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao? ” Ông McGovern không chỉ có một mình. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ nhưng vô cùng có ảnh hưởng. Sau cùng họ đã đạt được điều họ muốn..
Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ. Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền dân chủ của miền Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình. Đứng trước máy vi âm ông ta nói :


Bert schneider và cuốn phim "Hearts and Minds"
"Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng.”
Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đã được cố tình quên đi-. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc Schneider đọc bức điện tín này.
Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những người ủng hộ những cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng sốt không nguôi và không bao giờ quên được. Họ là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nhìn của thế giới về chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những người đồng hương của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58000 người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ dân chủ? Làm sao có thể nói rằng chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?
Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận của những con người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam. Không ai đề cập đến những trại tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ, 56000 người thiệt mạng, 250000 bị giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, hay là chế độ công an trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn tìm một phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự và trong những khung cảnh có thật.
Tại sao?
Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam như thế nào, những kẻ chế diễu chính sách của chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.
Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng thời gian rối ren nầy lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và những bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân của chúng ta đồng ý với chúng ta , những người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.
Như được tường trình lại trong bài Ý Kiến Quần Chúng, những kết quả thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ý. Những phát hiện nầy cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn là George McGovern bằng tỷ lệ 52 so với 46 phần trăm.


Nixon vs McGovern
Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà ngày nay đang thống lĩnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ.. – Sự xâm nhập này đã gây ra sự phản đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm cho bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả thăm dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn phong trào phản chiến.
Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến binh miễn cưỡng và thất bại, vẫn được những người dân Mỹ bình thường tôn trọng. Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy quyền bởi Veterans Administration) , 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm cựu chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu “ Vấn đề rắc rối ở Việt Nam là quân đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một cuộc chiến mà các lãnh tụ chính trị ở Washington không để cho họ được phép chiến thắng”, 70 phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ý với câu phát biểu “Những gì chúng ta gây ra cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.” Trọn 91 phần trăm những người đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã phục vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian trong quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa , ngay cả nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.
Bản thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường thái độ của công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1 đến 10.. Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên truyền hình 6.1, chính trị gia 5.2, những người biểu tình chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.
Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến, hai phần ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ không phải bị động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân tình nguyện. Trong số những người tử trận:86 phần trăm là da trắng,12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc các chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác khó khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của mình, và chính những người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng khi sau này bị lịch sử phán xét.
Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc chiến, mà còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở trong tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên dấu mình như thế.
Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý tưởng rằng tổ quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất kinh khủng. Thật là sáng mắt sáng lòng cho những kẻ đã tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn "ngọn lửa tinh nguyên của cách mạng" trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy trốn mà chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi thây ngoài biển, hoặc là nhìn thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi những người Cộng Sản “giải phóng quân.”
Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết bao khi nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp của một học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của em đã chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lý tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống chính quyền đã để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.

Làm thế nào lật đổ chế độ độc tài toàn trị CSVN?

Làm thế nào lật đổ chế độ độc tài toàn trị CSVN?
Author:Nguyễn Vĩnh Long HồPosted on: 2017-02-21
Khi dân chúng đã chín muồi để có thể biến thành một phong trào thì quần chúng đó sẽ ào theo bất cứ phong trào nào lãnh đạo một cách có hiệu lực.
“Vận động quần chúng có thể thay hình đổi dạng từ vận động tôn giáo thành vận động cách mạng xã hội hay vận động yêu nước; hay từ vận động cách mạng xã hội thành vận động yêu nước quá khích thành vận động tôn giáo. Vận động quần chúng tại các quốc gia Á Châu là phong trào yêu nước, nhưng cũng đồng thời cũng là những vận động cách mạng xã hội”...

*****
Chủ nghĩa toàn trị là gì?
.
Chủ nghĩa toàn trị (Totalitarianism) là một thuật ngữ được sử dụng bởi những nhà khoa học chính trị, đặc biệt là những người trong lĩnh vực so sánh để mô tả một chính thể trong đó nhà nước áp đặt “chế độ chuyên chế” (authoritarian regime), mà muốn quy định tất cả mọi hành vi cá nhân và công cộng trên mọi khía cạnh bằng áp chế và đàn áp.

Những học giả có ảnh hưởng nhất về chủ nghĩa toàn trị như Karl Popper, Hannah Arendt, Carl Friedrich, Zbigniew Brzeinski và Juan Linz đều mô tả mỗi người một cách hơi khác nhau. Điểm chung của tất cả các định nghĩa về chủ nghĩa toàn trị là sự cố gắng động viên toàn thể dân chúng trong việc hỗ trợ tư tưởng của nhà nước và sự không khoan nhượng đối với những hoạt động không hướng về mục tiêu của nhà nước, trấn áp kèm theo hoặc là sự điều khiển của nhà nước đối với công đoàn lao động, nhà thờ hoặc là các đảng phái chính trị.
.
Các chế độ toàn trị duy trì quyền lực chính trị bằng các công cụ như cảnh sát mật vụ, các biện pháp tuyên truyền được gieo rắc qua các phương tiện truyền thông, các quy định và các hạn chế về tự do ngôn luận, việc sử dụng sự giám sát bằng truyền thông và việc sử dụng phổ biến các chiến thuật khủng bố. Các quốc gia cộng sản, các chế độ độc tài quân sự, quân chủ đều là các thể chế chuyên chế theo các định nghĩa nầy.
.
Chế độ độc tài là gì?
.
Một thể chế mà nhà nước chuyên quyền mà ở đó nhà nước được cai trị bởi một cá nhân, một nhóm người, có thể là một gia đình, nhóm quân đội hay một đảng duy nhất như đảng cộng sản mà quyền lực không bị giới hạn và họ thường dùng những biện pháp trù dập các người đối lập để duy trì quyền lực. Chế độ độc tài đề cập đến hình thức cai trị độc đoán do một đảng cầm quyền không bị pháp luật, hiến pháp hay các nhân tố chính trị và xã hội trong quốc gia đó ràng buộc.
.
Theo Joseph C.W. Chan (Đại học Hồng Kông), chế độ độc tài là một thể chế nhà nước có quyền lực cầm quyền không được nhân dân ủng hộ. Trong khi đó, chủ nghĩa toàn trị (totalitarianism) là thể chế mà ở đó nhà nước quy định mọi mặt hành vi cá nhân và tập thể của nhân dân. Hay nói cách khác, chế độ độc tài liên quan đến nguồn gốc quyền cai trị (nơi quyền đó phát sinh) và chủ nghĩa toàn trị liên quan đến phạm vi của quyền cai trị (cái quyền do nhà nước quy định).
.
Theo giải thích trên, chế độ độc tài tương phản với thể chế dân chủ mà ở đó quyền lực nhà nước từ nhân dân mà ra. Còn chủ nghĩa toàn trị tương phản với chủ nghĩa tự do nơi nhà nước nhấn mạnh quyền tự do cá nhân. Mặc dù các khái niệm của thuật ngữ đó có khác nhau, nhưng trên thực tế chúng đều có liên quan với nhau, hầu hết các quốc gia độc tài đều để lộ ra các đặc điểm đặc trưng của chủ nghĩa toàn trị. Chính vì vậy chúng ta thường hay nghe 2 khái niệm đó được gộp thành một là “chế độ độc tài toàn trị”. Một khi quyền lực nhà nước không từ nhân dân mà ra thì quyền lực đó không bị giới hạn và có khuynh hướng bành trướng phạm vi của nó để kiểm soát mọi mặt đời sống nhân dân.
Ở vào thế kỷ XX và XXI, độc tài di truyền hay độc tài gia đình trị vẫn còn tương đối phổ biến là Tàu Cộng, Bắc Triều Tiên và Cộng sản Việt Nam. Theo những khái niệm về chế độ độc tài toàn trị, chúng ta có thể thấy những người sau đây là những nhà độc tài. Họ thường cầm quyền trong một thời gian dài không nghĩ hưu hay từ chức mà chỉ thôi chức do bị lật đổ hoặc chết.
.
Chế độ độc tài có thể được phân loại thành nhiều chế độ độc tài với nhiều mức độ khác nhau như:
.
* Chế độ độc tài tuyệt đối - autodictatorship (không có bầu cử);
* Chế độ độc tài độc nhất - monodictatorship (bầu cử không có tính cạnh tranh);
* Chế độ bán độc tài - semidictatorship (bầu cử chỉ có một phần cạnh tranh);
.
Một tác phẩm kinh điển của chế độ độc tài toàn trị là cuốn “Chủ nghĩa độc tài toàn trị và chế độ chuyên quyền” (Totalitarian Dictatorship and Autocracy) của Carl Friedrich và Zbigniew Brzezinski (1965). Các tác giả lập luận rằng, tất cả các chế độ độc tài toàn trị mang những tính chất sau:
.
- Một hệ tư tưởng phức tạp được cấu thành bởi một học thuyết chính thức bao trùm mọi mặt thiết yếu của sự tồn tại mà mọi người trong xã hội gắn liền với nhau.
- Một đảng đại chúng điển hình được lãnh đạo bởi một người, kẻ độc tài và bao gồm 1% rất nhỏ dân chúng.
- Một hệ thống khủng bố, tấn công cả thể xác lẫn tinh thần, chịu ảnh hưởng của đảng lãnh đạo và cảnh sát mật vụ.
- Một sự độc quyền kiểm soát về kỹ thuật và gần như tuyệt đối với tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng nằm trong tay đảng và chính phủ.
- Một sự độc quyền kiểm soát về kỹ thuật và gần như tuyệt đối với việc sử dụng hiệu quả tất cả vũ khí dùng cho chiến đấu vũ trang.
- Một sự kiểm soát và định hướng cho toàn bộ nền kinh tế xuất phát từ trung ương.

Mô hình chủ nghĩa độc tài toàn trị của ĐCSVN:
.
Mô hình này là một sản phẩm đặc biệt do ĐCSVN sáng tạo ra, đây là một sản phẩm hỗn hợp giữa “chính trị” với “pháp luật” cấu tạo thành một bộ máy cầm quyền của đảng và Nhà nước XHCNVN, nó không giống bất cứ một nhà nước nào trên thế giới hiện nay.
Trước đây, nguyên chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ đã mạnh dạn tuyên bố đảng cộng sản sẽ chấm dứt việc giới thiệu những ứng cử viên ứng cử vào chính phủ. Tuy nhiên, Quốc hội vẫn chưa có đủ sự độc lập cần thiết. Quốc hội hiện nay cũng không thể thực hiện được nhiệm vụ giám sát chính phủ. Nó cũng không thể thực thi nhiệm vụ “quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia”. Quốc hội ban hành luật nhưng luật có lợi ích gì khi có nhiều người không thi hành luật. Quốc hội cũng không làm gì được; bởi vì nó không có quyền can thiệp, thành tích làm luật mới cũng coi như bằng không. Quả thực, cũng không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì tất cả các đại biểu quốc hội là đảng viên hoặc do Đảng lựa chọn theo kiểu “đảng cử dân bầu”, có từ 93% đến 97% là đảng viên ĐCSVN.
.
Do vậy, Quốc hội không thuộc về nhân dân mà thuộc về Đảng. Đảng thậm chí soạn sẵn danh sách các ứng cứ viên buộc phải bỏ phiếu cho họ. Hơn 95% đại biểu quốc hội là “đảng viên”. Vì vậy, không thể gọi chính quyền này là của dân, do dân và vì dân với tỷ lệ này. Trên thực tế, mọi thứ đều được quyết định bởi ĐCSVN và những tổ chức này có nhiệm vụ chủ yếu là “thể chế hóa các quyết định của Đảng đối với chính phủ”. Cơ cấu của đảng từ thượng tầng đến hạ tầng đều có quyền hành tuyệt đối và không chịu sự quản lý của bất kỳ luật pháp nào. Kết quả, không gì khác hơn là “ĐẢNG TRỊ” trong một chế độ “TOÀN TRỊ”.
.
Nhiều nhà bất đồng chánh kiến, kêu gọi: “Đặt ĐCSVN dưới pháp luật!”. Trước đây, Hoàng Minh Chính đã khẳng định: “Gốc rễ của tất cả những đau khổ của đất nước và dân tộc VN là “điều 4 Hiến pháp”. Nó tuyên bố quyền “cai trị tuyệt đối” của ĐCSVN đứng trên của Tổ quốc - Dân tộc và đứng trên hết thảy mọi thứ.
Gareth Porter lưu ý rằng: “Mặc dù đảng có nhiệm vụ lãnh đạo nhà nước, nhưng không thay thế được nhà nước, sự nhập nhằng về chức năng giữa Đảng và Nhà nước là vấn đề căn bản của hệ thống chính trị tại VN ngay từ đầu.”(Porter, The Politics of Bureaucratic Socialism, trang 84).
.
Bởi vì đảng cộng sản không có quyền “lập pháp” vốn thuộc về quốc hội, cho nên đảng phải quản lý bằng “nghị quyết”; vì vậy, đảng tự cho mình có quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, đối với nhà nước và xã hội. Khi đưa ra “nghị quyết”, quy định của đảng chỉ đạo quốc hội, chính phủ, tòa án, thanh tra chính phủ và các tổ chức cơ sở…và như vậy, đảng đã biến toàn bộ hệ thống chính phủ thành những cơ quan thực thi các nghị quyết từ một nhóm quyền lực trong ĐCSVN. Dân chủ & Pháp luật cũng bị biến thành những công cụ thực thi những nghị quyết nầy.
.
ĐCSVN sử dụng pháp luật để duy trì “quyền lực độc tôn”. Đảng từ chối phân chia quyền lực giữa Đảng - Nhà nước và Cơ quan Tư pháp; vì vậy, không có ngành Tư pháp độc lập ở VN. Việc đảng đứng trên pháp luật là không ai có quyền phê phán đảng. Điều này đã tạo nên một “giai cấp mới” (the New Class) trở nên giàu có do “tham nhũng” và do trấn lột tài sản của nhân dân mà có.
.
Theo Milovan Djlas lập luận rằng: “Sau khi lên nắm quyền, ĐCSVN đã trở thành một giai cấp mới với luật lệ riêng của nó. Giai cấp mới giành được quyền lực, đặc quyền, đặc lợi dựa trên hình thức “sở hữu riêng biệt - sở hữu tập thể”. Nhân danh quốc gia và xã hội, nó có quyền quản lý và phân phối, thực ra chỉ là vỏ bọc cho quyền sở hữu thực sự của hệ thống quan chức trong chính quyền,” Djlas nhận định. “Những người đứng trong hàng ngũ của cái gọi là Đảng Cách Mạng. Khi đảng đã nắm được quyền lực thống trị là đảng viên thuộc về giai cấp được hưởng đặc quyền, đặc lợi; bởi vì Đảng độc quyền quản lý và kiểm soát việc phân phối tài sản quốc gia. Các đảng viên luôn có những cơ hội tốt hơn dành cho các con cháu của họ...” (Milovan Djlas, The New Class, trang 45).
.
Vì vậy, có thể nói chế độ CSVN độc tài toàn trị là một chế độ tham nhũng, thối nát, bán không từ thứ gì có thể bán kể cả bán nước, bán tài nguyên quốc gia, bán biển, bán đất cho ngoại bang. Ăn bẩn không chừa thứ gì có ăn được, ăn cả ciment, cộc sắt, rút ruột công trình để ăn. Tình trạng quan liêu, bao cấp, cửa quyền, vòi vĩnh hối lộ... trở nên công khai, tham nhũng thối nát, lãng phí đã trở thành “quốc nạn”. Tình trạng mua quan bán chức sử dụng bằng giả để chạy chức, chạy quyền trở nên công khai và thách thức.
Đó là phẩm chất đạo đức cách mạng của cấp lãnh đạo từ thượng tầng đến hạ tầng cơ sở khiến nhân dân bất mãn, ta thán, oán trách. Bộ máy chính phủ cồng kềnh, năng lực và trình độ của giới “lãnh đạo ngố & cán ngố” yếu kém làm nảy sinh xã hội ung thối. Bọn con ông cháu cha hoành hành coi thường luật pháp, lái xe bạt mạng, gây tai nạn giao thông chết người rồi bỏ chạy. Các tụ điểm ăn chơi của con cái đại gia, cán bộ cao cấp thâu đêm suốt sáng, hút ma túy thả giàn...
.
Nạn cường hào ác bá mới ở hạ tầng:
.
Cứ tưởng cường hào ác bá ở nông thôn chỉ có vào những năm truớc đây. Nhưng, bây giờ là thời kinh tế thị trường thì nạn cường hào ác bá lại càng tha hồ hoành hành dữ dội hơn nữa. Lũ cường hào ác bá mới là những tên cán bộ tham nhũng, tha hóa, biến chất lợi dụng quyền lực áp bức, bóc lột dân. Nạn cường hào ác bá mới nhức nhối hơn cả là ở nông thôn, những nơi người dân thấp cổ bé miệng dễ bị áp bức, bóc lột. Vì thiếu cơ sở giám sát nên bọn cường hào ác bá tha hồ thao túng, hà hiếp người nghèo bằng cướp đoạt đất đai tài sản của nông dân, chúng còn tàn nhẫn ăn cả tiền cứu trợ những hộ nghèo ở nông thôn.
Nạn “cường hào ác bá mới” ngày càng có thêm nhiều cơ hội để trỗi dậy khi quá dễ để vinh thân phì gia trên con đường hoạn lộ, nhờ tiền bóc lột dân nghèo để mua danh, mua chức. Trường hợp điển hình: Tại xã Quảng Vinh, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa chỉ có 9.500 dân chúng, nhưng có tới 500 cán bộ, tức là 20 dân phải làm lụng vất vả để nuôi 1 quan xã, ngồi mát ăn bát vàng và có rất nhiều địa phương như thế. Ủy ban Nhân Dân Xã là cấp hành chánh gần dân nhất, nhiều nơi hành xử thô bạo với nông dân bởi nhóm thiểu số “cường hào ác bá mới” nầy.
.
Danh từ “dân oan khiếu kiện” xuất hiện liên tục trong những năm gần đây, là nói tới những người dân bị oan ức trong xã hội như bị cướp đoạt tài sản, đất đai một cách trắng trợn. Một bộ phận lớn những người nầy là các nông dân và những “bà mẹ chiến sĩ”, “gia đình liệt sĩ” đã có “công” nuôi dưỡng lực lượng võ trang cách mạng trong thời kỳ “chống Mỹ cứu nước”. Họ bị các quan tham trong chính quyền cưỡng chiếm đất đai bằng bạo lực để bán cho bọn tư bản đầu tư nước ngoài xây dựng các khu công nghiệp, khách sạn cao cấp, sân golf... việc họ tập hợp dân oan khiếu kiện lên cấp Trung ương là hoàn toàn vô vọng vì tham nhũng đã đi vào hệ thống được liên kết chặt chẽ từ thượng tầng cho tới hạ tầng.
.
Trong hoàn cảnh bi đát bị chính quyền mất cướp tài sản, đất đai canh tác, đời sống hoàn toàn bế tắc và họ đã nghĩ đến cái chết nên họ chọn con đường tự thiêu để phản kháng, tố cáo tội ác của chế độ CSVN độc tài toàn trị đối với nhân dân...
.
Tham nhũng ở thượng tầng:
.
Trước hết, xin liệt kê một số vụ nổi tiếng gây chấn động dư luận trong thời gian qua để nói lên cái “quốc nạn tham nhũng” đang tàn phá đất nước:
.
Vụ EPCO-Minh Phụng.
Vụ PMU 18.
Vụ tham nhũng PCI.
Vụ tham nhũng Đề án 112.
Vụ Nexus Technologies, công ty Mỹ hối lộ quan chức VN.
Vụ công ty của Australia Securency hối lộ in tiền Polome ở VN.
Vụ chia chác đất công ở An Hải, Hải Phòng.
Vụ đại án Vinashin & Vinalines.
.
Theo đồng hồ nợ công toàn cầu (Global debt clock) trên trang mạng Economist.com, nợ công VN là trên 77,459 tỷ USD, bình quân tính theo đầu người VN nợ là 860 USD/người (tương đương 18 triệu đồng) năm 2012. Và số nợ công của VN tiếp tục tăng nhanh qua các năm và đến hết năm 2014 đã vượt con số 86 tỷ USD.
.
Nạn cường hào ác bá phát triển mạnh mẽ ở hạ tầng cơ sở là do tình trạng tham nhũng thối nát của cấp lãnh đạo thượng tầng kiến trúc: “Thượng bất chánh - Hạ tắc loạn”. Thử nhìn tài sản sản nổi của nguyên Thủ tướng Mafia Nguyễn Tấn Dũng thì đủ biết, tập đoàn tài phiệt Ba Dũng đang nắm giữ “kinh tài cả nước” & Điều khiển 20 doanh nghiệp quốc doanh quan trọng cốt lõi gồm có: Tập đoàn Dệt may - Tập đoàn dầu khí quốc gia - Tập đoàn công nghiệp than (khoáng sản VN) - Tập đoàn điện lực - Tập đoàn công nghiệp cao su - Tập đoàn Bưu chính viễn thông - Tổng công ty xăng dầu - Tập đoàn công nghiệp hóa chất - Tổng công ty giấy - Tổng công ty thuốc lá - Tổng công ty Sông Đà - Tổng công ty thép - Tổng công ty hàng không & taxi - Tổng công ty công nghiệp xi-măng - Tổng công ty lương thực miền Bắc - Tổng công ty lương thực miền Nam - Tổng công ty Cà phê - Tổng công ty đường sắt - Tổng công ty hàng hải và Tập đoàn viễn thông Quân đội VN.
.
Ngoài ra, vụ án Vinalines & Vanashin làm thất thoát số tiền khổng lồ lên đến hơn 4 tỷ USD và tại sao lại có vụ chìm xuồng vụ án Vanashin? Vì Ba Dũng có liên quan chặt chẽ với Vanashin từ việc bố trí nhân sự, bè phái vây cánh để ăn chia công quỹ.
.
Vụ mới nhất là vụ thất thoát một số tiền lên đến 3 tỷ USD ở Ngân hàng Phát triển Nông Nghiệp. Xin đồng bào hãy nhớ rằng, số tiền bị thất thoát là tiền “vay mượn nước ngoài” và những vụ thua lỗ do tham nhũng là nhân dân cả nước phải è đầu ra trả, chứ Tập đoàn tài phiệt Nguyễn Tấn Dũng chỉ biết lo rửa tiền, không hề hấn gì...
.
Chế độ công an trị:
.
Bất cứ chế độ độc tài toàn trị muốn an toàn đứng vững thì trước hết phải có một tổ chức một lực lượng áp bách “công an mật vụ” hết sức tinh tường với những tên chỉ huy sắt máu, sẵn sàng ra tay đàn áp dã man tàn bạo những phong trào nhân dân tự phát biểu tình, chống đối chế độ... Đó là chế độ “công an trị” để bảo vệ “chế độ độc tài toàn trị” của chính phủ. Chế độ độc tài toàn trị của ĐCSVN cũng không ngoại lệ.
.
Chế độ công an trị là gì?
.
Thuật ngữ nhà nước thiết lập chế độ “công an trị” (police state) dùng để chỉ một quốc gia mà chính phủ của nó dùng lực lượng công an, cảnh sát để thực hiện các biện pháp kiểm soát chặt chẽ để đàn áp đời sống chính trị kinh tế và xã hội của nhân dân. Nhà nước công an trị thường sử dụng công cụ lực lượng “công an mật vụ” hay “công an bảo vệ chính trị” để bảo vệ và củng cố chế độ độc tài toàn trị và kiểm soát chặt chẽ xã hội.
.
Với nguyên tắc: “Còn Đảng là còn mình”, như vậy lực lượng công an không còn là lực lượng bảo vệ an ninh trật tự xã hội nữa và bảo vệ nhân dân nữa mà nó trở thành công cụ bảo vệ “luật rừng” và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị nhằm vơ vét tài sản của nhân dân và trấn áp họ để bảo vệ sự tồn tại vĩnh viễn của đảng & Nhà nước CSVN. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi gần đây, lực lượng công an ngày càng lộng hành, tác oai tác quái qua những vụ dùng nhục hình tra tấn chết người vô tội trong các đồn, trại tạm giam công an. Nguyên Bộ trưởng Bộ CA Trần Đại Quang còn đề xuất cho lực lượng công an được quyền nổ súng trực tiếp vào người dân chúng nhằm vô hiệu hóa các trường hợp gọi là có dấu hiệu “chống người thi hành công vụ”.
.
Lực lượng công an được đảng & Nhà nước CSVN trao cho “giấy phép giết người” (licence to kill) vô tội vạ, khiến công luận vô cùng phẫn nộ xuất phát từ loạn công an kiêu binh, xem chừng như ngày càng gia tăng đáng ngại, người dân bị bắt vào trụ sở công an đã không trở về thì khá nhiều. Người chết trong đồn công an không thể tranh cãi, người sống không thể tranh cãi, khi luật rừng trong tay ác thế lực đang nắm quyền lực thống trị, một khi tội ác giết người man rợ của bọn công an là một lũ súc vật đội lốt người được bao che lấp liếm dung túng bởi bọn lãnh đạo ĐCSVN mất hết nhân tính.
.
260 người chết trong khi tạm giam tại đồn công an:
.
Sáng ngày 10/4/2015, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho biết, rất xúc động khi đọc báo cáo thấy con số hơn 260 người chết trong lúc tạm giam tạm giữ trong các đồn công an trong thời gian 3năm. Cái đó là công an phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Dù là tự tử, dù là bức cung nhục hình đánh chết người thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
.
Nguyên Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng nói: “Tôi nói với các đồng chí là không có cái chuyện tội nặng hay nhẹ, sai ít hay sai nhiều, mà không được để xảy ra oan sai. Cứ xảy ra oan sai ở đâu thì chỗ đó phải chịu trách nhiệm,” ông nói. “Mục tiêu của Quốc hội là không được để xảy ra oan sai, đi liền với đó là đã oan sai thì phải đền bù thỏa đáng theo quy định của pháp luật”.
.
Đây chỉ là thông báo từ Quốc hội để xoa dịu dư luận vì những bị tạm giam không phải là tội phạm, chỉ sau khi toà án xét xử, kết tội có bản án rồi mới thành tội phạm. Trại tạm giam của đồn công an không phải là tòa án. Công an chịu trách nhiệm vì 3 năm có 260 người chết khi bị công an tạm giam, tạm giữ. Nhưng công an chịu trách nhiệm là làm sao? Đây chỉ là lời nói suông như nước đổ lá môn. Tóm lại con số 260 người bị giết chết, chắc chắn họ tử vong bị nhục hình tra tấn dã man bởi bọn công an súc vật đội lốt con người. Thật quá khủng khiếp!
.
Công an đàn áp đẫm máu những cuộc biểu tình chống Tàu cộng & Formosa:
.
Từ năm 2013 cho tới bây giờ, giữa lúc người dân phẫn nộ biểu tình chống Tàu Cộng xâm lược ở Hà Nội - Sài Gòn và các thành phố lớn diễn ra trên khắp 3 miền đất nước thì bị lực lượng công an phối hợp cùng bọn “xã hội đen” tiếp tục đàn áp thô bạo những người biểu tình vì yêu nước. Sau đây là những vụ biểu tình mới xảy ra trong năm 2016:
.
[1] Ngày 17/7/2016, hãng tin AP đưa tin, hàng chục người Việt Nam tập hợp và xuống đường trong một cuộc phản đối ở trung tâm thủ đô Hà Nội đã bị nhà cầm quyền bắt giữ và đưa đi, trong lúc họ đang “ủng hộ” một phán quyết của Tòa trọng tài Quốc tế bãi bỏ tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh trên Biển Đông. Khoảng 20 người đã bị công an đưa lên xe bus và chở đi khỏi khu vực quanh hồ Hoàn Kiếm ở thủ đô Hà Nội.
[2] 8h40 cùng ngày 17/7/2016, tại xã An Hòa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An có khoảng 1.000 người biểu tình phản đối Formosa và yêu cầu khởi tố và đuổi công ty này khỏi VN. Trong số 1.000 người nói trên chủ yếu là giáo dân tại giáo Phú Yên do linh mục Anton Đặng Hữu Nam phụ trách.
Sáng ngày 7/7/2016, hơn 3.000 người dân thuộc Quảng Lộc, thị xã Ba Đồn (huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình đã bất ngờ xuống đường biểu tình chống Formosa, đồng thời yêu cầu Bộ trưởng tài nguyên - môi trường Trần Hồng Hà phải từ chức. Họ vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu bảo vệ môi trường và chống lại hành vi bao che cho Formosa đầu độc biển.
Ngay sau đó, lực lượng công an, cảnh sát cơ động đã bất ngờ ra tay đàn áp đẫm máu những người biểu tình. Nhiều tiếng súng đã nổ vang lên cùng hàng loạt lựu đạn cay được ném thẳng về phía bà con ngư dân không một tấc sắt. Theo tin tức ghi nhận, ít nhất 2 người dân đã bị đánh gây thương tích trầm trọng và phải nhập viện, hàng chục người khác cũng bị đánh đến mức đổ máu. Có nhiều ngư dân phẫn nộ đã dùng gạch đá đáp trả.
Cũng như bao nhiêu địa phương khác, người dân giáo xứ Cồn Sẻ và bà con ngư dân Quảng Bình là nơi bị ảnh hưởng trực tiếp bởi vụ việc Formosa thải chất độc gây ô nhiễm môi trường biển. Sau khi xảy ra hiện tượng cá chết, đời sống bà con ngày càng khó khăn và khủng hoảng. Hầu hết những người dân nơi đây đều sống bằng nghề đánh bắt cá, nhưng nay thì biển đã chết, bà con không biết làm gì để lo sinh kế cho gia đình, trẻ em có nguy cơ bỏ học. Trong khi đó, giới chức địa phương lại không hề hỗ trợ ngư dân. Trái lại khi bà con xuống biểu tình nêu lên nguyện vọng ôn hòa thì bị lực lượng CA đàn áp đẫm máu.
[3] Trước đó, sáng ngày 8/5/2016, Sài Gòn - Hà Nội nổi sóng Formosa bị lực lượng công an đàn áp thô bạo. Cuộc biểu tình tuần hành “vì nước sạch - vì chính quyền minh bạch” bắt đầu từ tại Trung tâm Sài Gòn và đã diễn ra ở nhiều nơi nhất là ở Sài Gòn. Lực lượng CA đã thẳng tay đàn áp, đánh đập và bắt bớ tràn lan. Nhiều người bị đánh đập tàn nhẫn. Ước tính có khoảng 110 bị bắt giữ. Công an chìm lẫn sắc phục đã bóp cổ, đấm đá túi bụi cả trẻ con và phụ nữ. Chính quyền CSVN đã quyết tâm bảo vệ Formosa mà bất chấp tính mạng của người VN. Trong lúc đó tại Hà Nội, hàng ngàn người dân tiếp tục xuống đường biểu tình phản đối nhà cầm quyền cộng sản đã tiếp tay gây ra thảm họa biển chết tại các tỉnh Miền Trung trong suốt một tháng qua, bắt nguồn từ khu vực khu công nghiệp Formosa Hà Tỉnh.
.
Tóm lại, bọn công an không còn còn là người VN nữa, mà hiện thân của những tên công an Tàu cộng, đứng hẳn về phía bọn thái thú Hà Nội, chống lại nhân dân ta để bảo vệ quyền lợi mẫu quốc Tàu Khựa. Bè lũ công an là một loại súc vật đội lốt con người.
.
Muốn cứu nước - toàn dân VN phải vùng lên làm cuộc cách mạng lật đổ chế độ độc tài toàn trị CSVN:
.
Cách mạng là gì?
.
Là xóa bỏ cái cũ để thay thế bằng cái mới tiến bộ hơn, là một sự thay đổi toàn diện sâu sắc, thường xảy ra bất ngờ trong một thời gian ngắn. Các cuộc cách mạng có thể dẫn đến thay đổi trong các thể chế chính trị - xã hội, hoặc thay đổi lớn trong một nền kinh tế hay văn hóa. Cách mạng đã từng xảy ra trong nhiều lĩnh vực như xã hội, chính trị, văn hóa, kinh tế, công nghiệp...
.
.Cách mạng thường được thực hiện dưới sự cưỡng ép của nhà nước hay quần chúng đông đảo, tạo ra một sự thay đổi toàn diện trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Trong nhiều thuật ngữ của châu Âu, các từ mang ý nghĩa “cách mạng” được bắt nguồn từ “revolution” (sự quay), trong tiếng La Tinh thông dụng, từ này có nguồn gốc từ “revolvere” (quay, xoay). Năm 1390, từ này được du nhập vào tiếng Anh qua từ “révolution” trong tiếng Pháp cổ, đặc biệt là sau cuộc lật đổ vua James II của Anh năm 1688.
.
Cách mạng chính trị là sự thay đổi nhà cầm quyền hoặc hình thức tổ chức nhà nước hiện tại bằng nhà cầm quyền hoặc hình thức tổ chức nhà nước khác được một số người xem là tiến bộ hơn bằng phương pháp bạo động hoặc bất bạo động mà không tuân theo những thủ tục được pháp luật quy định. Cách mạnh chính trị thường được mô tả bởi bạo lực và những thay đổi lớn trong bộ máy quyền lực thường có kết quả hơn bằng việc sử dụng bạo lực như cuộc “Cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917” và “Cách mạng Pháp”. Một cuộc cách mạng chính trị có thể sử dụng vũ lực để lật đổ nhà cầm quyền, tiêu diệt những cá nhân bị xem là phản cách mạng như đã xảy ra ở Pháp và Xô Viết.
.
Tóm lại, cách mạng là một biến động chính trị lớn lao xảy ra khi mà chế độ, tổ chức, càng ngày càng tỏ ra áp bách dân chúng quá đáng, càng ngày càng bất lực trong việc giải quyết sự sinh sống của dân chúng (chẳng hạn như Formosa). Tuy nhiên, cách mạng không tự nhiên xảy ra, phải do người ta tranh đấu. Trong đấu tranh, không chỉ nhờ chính nghĩa, thuận lòng trời, hợp lòng người mà phải nhờ chiến lược đúng đắn và thủ đoạn để chiến thắng. Cuộc cách mạng nào cũng phải tiến đến “đảo chính”. Vì vậy, kỹ thuật cướp chính quyền là kỹ thuật đảo chánh (coup d’état).
.
Thuật ngữ đảo chánh trong tự điển “Littré” giải thích như sau: “Le coup d’État est une action qui décide de quelque chose d’important pour le bien d’ Etat.” (Đảo chánh là một hành động có tính quyết định một điều quan trọng cho lợi ích quốc gia). Tất cả đều phải thay đổi, không một chế độ, một đường lối cai trị nào dù tốt đẹp tới đâu có thể tồn tại vĩnh viễn.
.
Theo GS chính trị học Umberto Melotti qua tác phẩm “Rivoluzione e Società” (Cách mạng & Xã hội). Theo ông những cuộc cách mạng vốn trải qua những cuộc chuyển nhượng (transfer) quyền hành chính trị của một nhóm người cũ đến một nhóm người mới khác. Còn cuộc cách mạng thứ hai là “xã hội”, cuộc cách mạng này công kích vào ngay những cơ cấu xã hội đó, như những tệ nạn làm ung thối xã hội do chính phủ đương thời gây nên. Hay thêm nữa, là giữa những cuộc cách mạng phổ quát được toàn dân hưởng ứng.
.
Cũng theo ông nghĩ, những cuộc “cách mạng tư sản” (révolution bourgeoises) nhằm tiêu diệt chế độ phong kiến cùng xã hội tư bản. Còn cuộc “cách mạng vô sản” (révolution prolétariennes) là cuộc cách mạng được ngụy trang của người cộng sản đã tạo bao nhiêu đau khổ cho con người khi cộng sản cướp chính quyền ở Nga vào năm 1917, tại Trung Hoa 1949, tại Việt Nam 1945 và 1954 ở Miền Bắc cũng như một lúc 1975 tại Miền Nam, ở Cuba vào năm 1959... đã giết hại hàng trăm triệu người... đây là một cuộc cách mạng thoái hóa (révolution régessives).
.
Cuộc cách mạng thoái hóa nầy là cụ thể của các nước cộng sản, đặc biệt là tại Việt Nam, phải nói là tên tội đồ HCM và đồng bọn như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Đỗ Mười... đã đưa đất nước và dân tộc đến tận cùng của sự nghèo đói và lạc hậu. Đây quả là một cuộc “cách mạng thoái hóa”!
.
Sau khi cưỡng chiếm Miền Nam VN, để hoàn tất cái gọi là thống nhất hai miền đất nước theo chỉ thị của Nga-Tàu. Những tên lãnh đạo ĐCSVN bắt đầu từ HCM đã làm băng hoại đất nước, luân thường đảo ngược, thực hiện chính sách ngu dân dễ trị, tham nhũng kinh hoàng, kinh tế lụn bại, nợ công, nợ xấu ngập đầu, xã hội VN đẫm máu vì bạo lực vì ma túy ngáo đá. ĐCSVN đã đưa VN vào quỹ đạo của Tàu Cộng để tự hủy diệt để trở thành một khu vực tự trị như Tân Cương, Tây Tạng…
.
Những hình thức đảo chánh:
.
Có thể tạm phân chia ra những hình thức đảo chánh đã được chứng kiến trong lịch sử thế giới như sau:

[1] Đảo chánh thâm cung: Thanh toán, giết chết bằng đầu độc, bằng ám sát trong chốn thâm cung để tranh đoạt quyền lực, ngôi thiên tử, ngôi hoàng hậu... như Vũ Tắc Thiên hoặc Cù thị và Lữ Gia.
[2] Đảo chánh Catalinaire: Kết hợp các lực lượng trong chế độ để chống lại chính quyền, kết hợp đấu tranh nghị trường với quần chúng để khuynh đảo chính quyền (Catalina chống Ciceron).
[3] Đảo chánh quân đội Césarisme: Tình thế hỗn loạn, một ông lớn có uy tín, có quân quyền về lật chính phủ trung ương thiết lập chế độ khác, đảo chánh để chống lại một cường thần mà thế lực đang lên quá mạnh (vua Louis 14 lật thế lực Fouquet)
[4] Đảo chánh Cromwell: Vua Charles I lạm dụng quyền hành, Cromwell lãnh đạo một số lãnh chúa đem quân tấn công London bắt vua Charles I đem xử chém.
[5] Đảo chánh Bonapartisme: Kết hợp đấu tranh nghị hội với áp lực quân đội để tiêu diệt một tình trạng chính trị quá phân tán. Napoléon Đệ nhất ngày 19, Brumaire – Napoléon Đệ Tam ngày 2 Décembre 1851.
[6] Đảo chánh Pronunciamientos: Quân đội đảo chánh, cầm đầu bởi bộ máy Junta do một số sĩ quan hợp lại thường thấy ở vùng Nam Mỹ.
[7] Đảo chánh cướp chính quyền: Đảo chánh bằng sự cướp chính quyền theo phương thức hợp pháp. Hitler được Hindenburg mời làm thủ tướng. Mussolini được vua Ý thỏa thuận cho lập nội các.
[8] Đảo chánh quân nhân cách mạng: Mustapha Kémal tại Thổ Nhĩ Kỳ. Néguib và Nasser tại Ai Cập.
[9] Đảo chánh khởi nghĩa: Đưa đến cách mạng tháng 10 tại Nga năm 1917.
.
Bài học kinh nghiệm “Kỹ thuật đảo chánh của Trotsky”:
.
Đảo chánh khởi nghĩa đưa đến Cách mạng tháng 10 năm 1917 tại Nga đi đến thành công là do kế hoạch sáng tạo của Leon Trotsky. Trong cuộc đàm thoại với Lenine để chuẩn bị cuộc khởi nghĩa:
.
Lenine nói: “Cuộc khởi nghĩa của chúng ta nhất định không thể dựa trên âm mưu của một nhóm người, chúng ta phải đặt nó trên cơ sở của giai cấp tiền phong. Cuộc khởi nghĩa phải dựa trên đà cách mạng của nhân dân và cuộc khởi nghĩa phải nổ ra lúc cao trào cách mạng lên đến tột đỉnh.”
.
Trotsky nói: “Điều quan trọng cho tất cả mọi Catalinaires trong lịch sử là đập mạnh một cú bất ngờ không cho địch kéo dài thời gian. Tổ chức khởi nghĩa là bộ máy đảo chánh lạnh lùng và lặng lẽ. Bộ mấy ấy được điều khiển bởi các tay chuyên viên lành nghề,” Trotsky, giọng thân mật, nói tiếp. “Chiến lược của đồng chí phức tạp và đòi hỏi nhiều cơ hội tốt quá! Còn đối với tôi, khởi nghĩa không cần nhiều như vậy, chỉ cần một bộ máy tinh vi, hành động mau lẹ như quả đấm mạnh vào bụng làm tê liệt đối thủ. Chỉ có như vậy thôi! Những người được huấn luyện sẽ chia ra từng nhóm nhỏ đến chiếm ngay đô thị bằng hết các điểm chiến lược: Thứ nhất: là những trung tâm kỹ thuật. Thứ hai: Chúng ta phải khởi nghĩa theo cái nghĩa của một cuộc đảo chánh. Sự huy động ồn ào sẽ biến cuộc khởi nghĩa thành chiến tranh mất.”
.
Bài học Cách mạng Romania:
.
Chế độ Ceausescu sụp đổ sau một loạt sự kiện bạo lực tại Timisoara và Bucharest tháng 12 năm 1989. Tháng 11 năm 1989, Đại hội lần thứ 14 Đảng CS Romania (PCR) chứng kiến Ceausescu, khi ấy 71 tuổi, tái đắc cử một nhiệm kỳ lãnh đạo 5 năm nữa.
[1] Timisoara: Những cuộc tuần hành ở thành phố Timisoara phát sinh bởi nỗ lực được chính phủ ủng hộ nhằm đuổi László Tôkés, một mục sư người Hungary, bị chính phủ buộc tội gây ra sự “căm thù sắc tộc”. Các thành viên giáo đoàn Hungary bao vây căn nhà của ông để bày tỏ sự ủng hộ.
.
Các sinh viên Romania tự động gia nhập cuộc tuần hành và nó nhanh chóng thoát ly khỏi nguyên nhân ban đầu và nó trở thành một cuộc tổng tuần hành chống chính phủ. Các lực lượng quân đội và cảnh sát và Securitate nổ súng vào những người biểu tình ngày 17/12/1989. Ngày 18/12/1989, Ceausescu lên đường đi Iran, giao lại trách nhiệm đàn áp cuộc nổi loạn Timisoara cho các thuộc cấp và vợ. Ngay khi ông quay trở về ngày 20/12, tình hình thậm chí còn căng thẳng hơn và ông đã có một bài phát biểu trên truyền hình từ phòng phát sóng bên trong Tòa nhà Ủy ban Trung Ương (CC Building), trong đó ông nói về các sự kiện tại Timisoara như một sự can thiệp của các lực lượng nước ngoài vào công việc nội bộ của Romania và một sự “tấn công từ bên ngoài vào chủ quyền của Romania”.
[2] Lật đổ: Ngày 21/12, cuộc tụ họp lớn được tổ chức tại nơi giờ là Quảng trường Cách mạng, biến thành sự hỗn loạn. Hình ảnh Ceausescu vô cảm trước sự la ó của đám đông là một trong những khoảnh khắc mạnh mẽ nhất về sự sụp đổ của Chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu. Vợ chồng nhà độc tài, không thể kiểm soát nổi đám đông, cuối cùng phải ấn trốn trong tòa nhà, và họ tiếp tục ở đó tới ngày hôm sau. Cả ngày hôm đó tiếp tục là cuộc nổi dậy của người dân Bucharest, vốn đã chiếm Quảng trường Đại học và cuộc xung đột dữ dội giữa cảnh sát và quân đội tại các trạm gác. Những sự kiện đầu tiên này, ngày nay được coi là một cuộc cách mạng thực sự.
[3] Hành quyết: Ceausescu và vợ là Elena đã bỏ chạy khỏi thủ đô bằng trực thăng đi tới Târgoviste. Gần Târgoviste, họ bỏ lại chiếc trực thăng vì đã bị quân đội hạ lệnh buộc phải hạ cánh. Vợ chồng Ceausescu bị cảnh sát bắt giữ. Cuối cùng cảnh sát giao vợ chồng cho quân đội Romania. Ngày 25/12, hai người bị một toà án quân sự xử tử hình vì tội diệt chủng hơn 64.000 người bị giết chết bởi lực lượng cảnh sát mật vụ ủng hộ Nicolae Ceausescu và vợ chồng tên độc tài Ceausescu đã bị hành quyết tại Târgoviste trước một đội xử bắn.
Sở dĩ cuộc cách mạng ở Romania thành công mau chóng, ít đổ máu là nhờ “quân đội Romania phản tỉnh” đứng về phía nhân dân Romania, quay súng chống lại chế độ độc tài, khát máu Nicolae Ceausescu và làm tan rã cái lực lượng công an, mật vụ bảo vệ chế độ đó. Nhân dân Việt Nam cũng kỳ vọng QĐNDVN sẽ hành xử như quân đội Romania và đó mới là nhiệm vụ thực sự của QĐNDVN bảo vệ Tổ Quốc vì dân mà chiến đấu, chứ không bảo vệ cái ĐCSVN chết tiệt tham nhũng, thối nát, buôn dân bán nuớc, một bọn lãnh đạo bất tài, những tên thiến heo, thiến bò ngu dốt.
.
Nguyên tắc vận động quần chúng:
.
Quần chúng bạo động vì đã quá cùng khổ, đói rách thúc bách sau lưng. Vào cướp ngục Bastille đa số là vì dân chúng lâm vào cảnh cùng đường vì đói rét. Bằng chứng là trước ngày cướp phá Bastille, họ đã cướp phá tu viện Lazarite để chiếm 50 xe lúa mì. Khi dân chúng đã chín muồi để có thể biến thành một phong trào thì quần chúng đó sẽ ào theo bất cứ phong trào nào lãnh đạo một cách có hiệu lực.
.
Như vậy, người ta khả dĩ nhận ra những nguyên tắc về các phong trào vận động quần chúng được tóm gọn như sau: “Vận động quần chúng có thể thay hình đổi dạng từ vận động tôn giáo thành vận động cách mạng xã hội hay vận động yêu nước hay từ vận động cách mạng xã hội thành vận động yêu nước quá khích thành vận động tôn giáo. Vận động quần chúng tại các quốc gia Á Châu là phong trào yêu nước, nhưng cũng đồng thời cũng là những vận động cách mạng xã hội”.
.
Sỡ dĩ người ta gia nhập vận động cách mạng xã hội là vì người ta muốn thay đổi những điều kiện sinh hoạt hiện thời. Không muốn trật tự cũ bởi trật tự cũ địa vị của họ quá lép vé, bất công và cũng không muốn số phận họ bị giai cấp thống trị áp bức bóc lột. Không chấp nhận giá trị tinh thần cũ vì nó đang bóp chết mọi thứ tự do căn bản của con người. vận động cách mạng xã hội là công cụ tốt nhất cho ước vọng đổi thay…
.
Phương pháp bạo động:
.
Trước hết phải nhận bạo động là một nghệ thuật theo luật tắc của chiến tranh, nó phải được thi hành cùng với sự tuân thủ triệt để một số nguyên tắc, nếu sơ hở sẽ bị tiêu diệt mà điều kiện tiên quyết là phải “vượt lên trên sự sợ hãi” đoàn kết lại để tranh đấu. Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản:
.
[1] Bạo động là việc cực hệ trọng, cho nên khi đã phát khởi báo động là phải quyết tâm sắt đá tiến đến cùng. Nếu chưa quyết tâm đó thì không được phát khởi bạo động.
[2] Phải tụ tập được lực lượng chống đối với địch càng lớn càng tốt. Lực lượng nhỏ yếu, vô kỷ luật, vô tổ chức chỉ làm mồi ngon cho địch tiêu diệt.
[3] Chỉ có tấn công không có phòng thủ. Một khi bạo động đã được phát khởi rồi thì chỉ còn có nước tiến cùng, phòng thủ là con đường chết của bạo động.
[4] Mỗi ngày giành thêm mỗi thắng lợi mới, thiếu sự thắng lợi mỗi ngày tinh thần phe bạo động rất dễ bị mất tinh thần.
[5] Phải tranh thủ bằng mọi cách những phần tử còn do dự. Khi bạo động phát khởi, số đông chờ đợi kẻ chiến thắng mà ngã theo, vì vậy phe bạo động phải làm thế nào tuyên truyền có bộ mặt chiến thắng đó.
[6] Dũng cảm là điều kiện quan trọng nhất. Lúc bạo động chỉ có một nguyên tắc phải làm là quyết tâm là dám làm và dám làm đến cùng.
.
Bài viết này tôi chỉ phác họa những nét cơ bản là làm thế nào lật đổ được chế độ cộng sản độc tài toàn trị càng sớm càng tốt để cứu nguy tiền đồ Tổ quốc & Dân tộc chúng ta. Tôi mong được sự đóng góp ý kiến của mọi người. Xin trân trọng cám ơn quý vị.
.
Tổng hợp & nhận định
06.08.2016

PHỤ CHÚ : HÃY NOI GƯƠNG ROUMANIE.
Romania: Mỗi ngày bắt 3 quan tham và hạ bệ cả cựu thủ tướng

BizLIVE - Dư luận quốc tế đang chú ý đến các cuộc biểu tình diễn ra liên tiếp ở Romania đòi chính quyền tại đây từ chức, BBC đưa tin.

Romania: Mỗi ngày bắt 3 quan tham và hạ bệ cả cựu thủ tướng
Ông Victor Ponta đã từ chức Thủ tướng Romania năm 2015 vì cáo buộc lạm quyền - EPA.
Nhưng căn nguyên của cuộc đấu tranh lại đến từ thành công quá sức tưởng tượng của cơ quan chống tham nhũng nước này lập ra từ hơn 10 năm qua để truy quét các quan tham.
Ra đời năm 2005, Tổng cục chống tham nhũng (DNA) trực thuộc Bộ Nội vụ Romania nhưng hoạt động theo một bộ luật riêng.
Hiện 120 công tố viên đang truy xét 6.000 vụ việc, cơ quan này đã 'gặt hái' kỷ lục năm 2015: kết tội 1.250 quan chức vì liên quan đến tham nhũng.
Tính trung bình mỗi ngày có trên ba quan chức bị DNA ra lệnh bắt.
Không kiêng nể ai
Trong số các nhân vật cao cấp nhất bị DNA đem truy tố có cựu thủ tướng Victor Ponta, năm bộ trưởng, 21 thành viên lưỡng viện Quốc hội và cả thị trưởng Bucharest, ông Sorin Oprescu.
DNA cũng thu về khoản tiền gần 500 triệu euro từ các tài khoản, gia sản của những quan chức bị kết tội tham nhũng.
Cơ quan này được sự hỗ trợ của Liên hiệp châu Âu và tư vấn của các chuyên gia Tây Ban Nha cùng Anh Quốc.
Tuy nhiên, giới chỉ trích cũng phê phán DNA của Romania "hành xử như công an mật" với thẩm quyền quá rộng rãi.
Chẳng hạn trên cơ sở các bằng chứng mới chỉ mang tính nghi vấn, cục chống tham nhũng Romania có thể tạm giam nghi phạm tới 180 ngày để điều tra.
Báo chí châu Âu cũng chú ý đến vụ một triệu phú, ông Dan Adamescu bị chết trong tù ở tuổi 68, khi đang chịu án tội đưa hối lộ.
Từng là một trong số người giàu nhất Romania, ông bị xử hơn 4 năm tù trong vụ đưa hội lộ cho hai thẩm phán.
Khi còn sống, ông Adamescu luôn lên án cơ quan chống tham nhũng DNA và gia đình ông cáo buộc điều kiện tồi tệ trong nhà giam đã khiến ông nhiễm bệnh mà chết.
Nhìn chung, phản ứng từ các quan chức Romania đã khiến chính phủ của đảng Dân chủ Xã hội thông qua sắc lệnh để giảm tội cho những ai nhận hối lội chưa đến 44 nghìn euro.
Sắc luật này, do chính phủ của Thủ tướng Sorin Grindeanu thông qua hồi đầu năm 2017, đã gây ra các cuộc phản đối tụ họp 700 nghìn đến 1 triệu người ở Bucharest và một số đô thị, để đòi toàn bộ chính phủ từ nhiệm.
Hiện sắc luật giảm tội cho quan tham đã bị rút lại và chính quyền chấp nhận để có cuộc trưng cầu dân ý xem các biện pháp chống tham nhũng hà khắc có tiếp tục hay không.
Được sự ủng hộ của Tổng thống Klaus Iohannis, người cũng đứng về phía người biểu tình, luật trưng cầu dân ý còn đang chờ có ngày tháng cụ thể để cử tri đi bỏ phiếu.
Nếu được thông qua, kết quả trưng cầu dân ý sẽ cho phép cơ quan chống tham nhũng không chỉ duy trì công việc mà còn mở rộng phạm vi hoạt động.
MINH ANH