Sunday, December 27, 2015

Trùm Mật Vụ Dương Văn Hiếu Lên Tiếng

Tôi không biết gì về vấn đề Bộ An ninh nêu trên. Trong giai đoạn chót,Tổng thống, Đức Cha và hai ông Nhu, Cẩn không đồng nhứt tư tưởng, đặcbiệt trong vụ khủng hoảng Phật giáo 
Trùm Mật Vụ Dương Văn Hiếu Lên Tiếng

Lâm Lễ Trinh

Sự tịnh khẩu từ 1963 cho đến nay của ông Dương Văn Hiếu, nguyên Trưởng
đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung thời Đệ nhứt Cộng hoà Việt Nam, là
một cuộc hành trình xuyên sa mạc dài trên bốn thập niên. Tác giả bài
này đã liên lạc lại được với ông Hiếu hiện định cư tại San Jose,
Californie. «Con người biết quá nhiều, L’homme qui en savait trop» và
từng bị gán biệt danh «Hùm Xám của Chế độ» đã chấp nhận trả lời nhiều
câu hỏi của chúng tôi liên hệ đến một giai đoạn chính trị cực kỳ sôi
động trong cuộc chiến tranh tình báo chống Bắc Việt từ 1954 cho đến
tháng 11.1963. Sau vụ đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông
Hiếu bị Hội đồng Quân Dân Cách mạng điều tra, đưa ra Côn đảo với một
số nhân vật khác của Chính phủ củ và được trả tự do năm 1964.

Đêm 28.4.1975, ông rời Việt Nam với đứa con trai đầu lòng trên một
chiếc tàu Hải quân VN cùng với Trung tướng Nguyễn Văn Là, cựu Tổng
Giám đốc Công An. Năm 1989, gia đình gồm có vợ và tám người con sau
qua đoàn tụ với ông tại Hoa kỳ.

Ông Dương Văn Hiếu nay 81 tuổi, sức khoẻ không dồi dào như trước nhưng
trí nhớ còn sắc bén khi nhắc đến ký ức xa xưa. Ông giới hạn hoàn toàn
sự giao thiệp bên ngoài về mặt chính trị và đã từ chối mọi đề nghị
phỏng vấn của báo chí. Sau đây là những điểm chính có thể tiết lộ
trong cuộc nói chuyên có ghi âm giữa ông Dương Văn Hiếu (DVH) và tác
giả (LLT) :

LLT: Xin ông vui lòng cho biết sơ lược, nếu được, những năm niên thiếu
của ông và trường hợp nào ông tham gia ngành công an và được bổ nhiệm
vào chức vụ Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung (ĐCTĐMT). Chức vụ
chót của ông trước cuộc đảo chính 1.11.1963 là gì ?

DVH : Tôi sanh ra tại Hà Nam, Bắc Việt, trong một gia đình trung lưu
làm ăn thành công. Tôi học tại trường trung học Louis Pasteur và Thăng
Long, Hà Nội. Vừa lấy xong bằng diplôme d’Etudes primaires supérieures
vào năm 1944-1945 thì Nhựt đảo chính Pháp. Tôi lập gia đình năm 1948,
bố vợ tôi là bác sĩ Nguyễn Văn Tam từng phục vụ trong Liên khu 5 và
cộng tác với Đức cha Lê Hữu Từ ở Phát Diệm. Sau Hiệp định Genève năm
1954, tôi được cụ Võ Như Nguyện, Giám đốc Công an Trung Phần, để ý
trong một buổi học tập chính trị mà tôi là thuyết trình viên (về đề
tài Điện Biên Phủ). Ông tuyển tôi vào ngành công an. Giữa 1957, tôi
giữ chức Trưởng ban Khai thác Nha CA-CS Trung nguyên Trung phần. Khi
ông Nguyễn Chử, một lãnh tụ Quốc Dân Đảng, thay thế cụ Nguyện, tôi trở
thành Trưởng ty Công an Tỉnh Thừa Thiên và Đô thị Huế. Nhờ phá vở được
trong vòng hai năm hệ thống điệp báo Cộng sản Khu 5 và mở rộng hoạt
động ra đến các tỉnh Quảng trị, Quảng Ngải, Bình Thuận, Qui Nhơn
v.v.., tôi được ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Đình Cẩn và Đại biểu
Chính phủ Miền Trung Hồ Đắc Khương giới thiệu nhiệt tình với Tổng
thống Ngô Đình Diệm. Giữa 1957, tôi được bổ nhiệm Trưởng Đoàn Công tác
Đặc biệt Miền Trung (ĐCTĐBMT) để làm việc tại Sàigòn vào đầu năm 1958.
Chủ đích của Đoàn là thi hành chính sách của Cố vấn Ngô Đình Cẩn mệnh
danh «Chiêu mời (sau đổi thành Cải tạo) và Xử dụng các cán bộ cựu
kháng chiến». Lúc đó tôi đã gia nhập đảng Cần Lao.

Sau vụ đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan
Quang Đán ngày 11.11.1960, tôi làm Phụ tá cho Tổng Giám đốc Công an
Nguyễn Văn Y, còn ông Nguyễn Văn Hay thì giữ chức Phó Tổng giám đốc
Công an. (Vợ ông Hay là một người em bà con của tướng Dương Văn Minh)

LLT: Có phải cùng một lúc, ba sĩ quan Cần Lao Nguyễn Văn Châu, Phạm
Thư Đường và Lê Quang Tung cũng được đưa vào Nam. Châu trong chức Giám
đốc Nha Chiến tranh Tâm lý, Bộ Quốc phòng; Đường, Phụ tá cho Trần Kim
Tuyến, Sở Nghiên Cứu Xã hội Chính trị (SNCCTXH); và Tung, cầm đầu Lực
lượng Đặc biệt? Ngoài ra, còn có Phan Ngọc Các, hoạt động cho cánh Cần
Lao Ngô Đình Cẩn. Đoàn CTĐBMT đặt trụ sở tại đâu? có bao nhiêu nhân
viên? chi phí họat động do cơ quan nào trang trải?

DVH: ĐCTĐBMT có trách vụ lo về tình báo chiến lược và phản gián, không
liên hệ đến ba sĩ quan vừa kể và Phan Ngọc Các. Trụ sở của Đoàn đặt
tại trại Lê Văn Duyệt, Sàigòn, gần Quân khu Thủ đô. Dưới quyền tôi, có
tám nhân viên và hai thơ ký đánh máy. Chi phí hoạt động (lương bổng,
đồ ăn, feuille de route.v.v...) do Phòng Hành chính của Phụ tá Nguyễn
Thành tại Tổng Nha Công an cấp vì trên giấy tờ, tôi và các nhân viên
được coi như vẫn thuộc Ty Công an Thừa Thiên. Đôi khi Đoàn cũng nhận
được sự trợ giúp của Chánh Văn Phòng Đặc biệt Võ Văn Hải, với tiền lấy
từ Quỷ đen của Tổng thống. Số tiền này không hệ trọng, chỉ có tính
cách nâng đỡ tinh thần. Riêng cá nhân tôi không được cấp một nhà chức
vụ. Tôi có mua một công xá gần nhà bí thơ Trần Sử ở khu Công Lý,
Sàigòn. Đoàn không nhận một ngân khoản nào đến từ ông Ngô Đình Cẩn.

LLT: Xin ông cho biết vài chi tiết hệ trọng trong hồ sơ Vũ Ngọc Nhạ
(từng tự xưng là cố vấn của TT Diệm) và Huỳnh Văn Trọng (cố vấn của
Tổng thống Thiệu)

DVH : Nhạ không bao giờ làm cố vấn cho TT Diệm. ĐCTĐBMT đã bắt y thời
Đệ nhứt Cộng Hòa như một cán bộ CS tép riu, một tiểu công chức tại Bộ
Công Chánh. Nhạ mang nhiều tên khác: Vũ Đình Long, Hai Long, Ông Giáo,
Thầy Bốn v.v... Còn Trọng thì bị dính trong vụ mệnh danh «Gián điệp
Pháp ở Nhà hàng Morin Huế». Y đã trốn thoát qua Nam Vang. Sau 1963,
trở về Sàigòn, y được Nhạ bố trí vào Dinh Độc lập. Chính Tổng trưởng
Nội vụ Hà Thúc Ký đã thả Nhạ sau 1963. Nhạ tái hoạt động với cụm tình
báo A 22 trong đó có Trọng và Lê Hữu Thúy tự Thắng. Linh mục Hoàng
Quỳnh giới thiệu Nhạ cho Trần Ngọc Nhuận, cha sở nhà thờ Phú Nhuận,
bạn thân của vợ chồng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

LLT: ĐCTĐBMT có xử dụng «hầm» P42 – được báo giới ngoại quốc mô tả là
«địa ngục trần gian»- để tra vấn các tù nhân hay không ?

DVH: P42 là một biệt thự thuộc Bộ Canh nông nằm bên trong Sở Thú,
Jardin botanique Sàigòn, dùng để nhốt một số can phạm chính trị đặc
biệt. Đoàn chúng tôi không xử dụng vì có trại Lê Văn Duyệt rồi.

LLT: Trong công tác, ông phúc trình cho ai? Tổng thống? Ông Nhu hay
ông Cẩn? Ông có trao đổi tin tức, tài liệu gì với cơ quan CIA hay
không? Mối giao hảo công vụ giữa ĐCTĐBMT và Tổng Nha Công An, Sở
NCXHCT của Trần Kim Tuyến, Tổng Nha An ninh Bộ Quốc phòng (Đỗ Mậu) và
Lê Quang Tung ra sao?

DVH: Tôi làm việc gần ông Nhu hơn. Khi có chuyện hệ trọng cần hỏi
thêm, Tổng thống gọi tôi vào Dinh. Tôi chỉ gởi bản sao một vài phúc
trình cho ông Cẩn. Trong những ngày cuối cùng trước đảo chính 1963,
tôi bị ông Cẩn hiểu lầm “nhức đầu”. Ông Nguyễn Văn Minh, bí thơ ông
Cẩn, và Trung tá Phạm Thư Đường, chánh văn phòng Cố vấn Nhu cũng ở
trong hoàn cảnh đó.

Tôi không bao giờ liên lạc với CIA. Tuy nhiên, sau vụ đảo chính
1.11.1963, bị Cách Mạng giam tại Chí Hoà, tôi mới được biết rằng tên
Phan Khanh, phụ tá cho tôi, chiụ trách nhiệm về operations, được CIA
móc nối. Khanh do ông Cẩn giới thiệu với tôi “vì biết võ”.

Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám đốc Công An cũng như Trần Kim Tuyến
(SNCCTXH), Lê Quang Tung (Lực lượng Đặc biệt) và Đỗ Mậu (An ninh Quân
đội) không ưa tôi. Vợ ông Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương và bà Thiếu
tướng Nguyễn Văn Là (tiền nhiệm ông Y tại Công An) đều không thích bà
Tuyến vì tranh dành địa vị bên cạnh bà Nhu nên ảnh hưởng đến các ông
chồng. Tôi tránh xen vào mê hồn trận này.

Riêng về Đỗ Mậu, ông hận tôi vì ĐCTĐBMT đã phát hiện và bắt Thiếu úy
Lê Hữu Thúy, một điệp viên VC được ông đặt làm Trưởng phòng An ninh
tại Nha An ninh Quân đội.

LLT: Phương pháp làm việc của ĐCTĐBMT có gì mới lạ? Hiệu quả công tác
của Đoàn ra sao? Phản ứng của phía CS Bắc Việt như thế nào?

DVH: Sau đây tóm tắc vài đặc điểm của Chính sách Cải tạo (đi đôi với
việc thành lập Lực Lượng Võ Trang Nhân Dân): Trong các nhà tù không
song sắt, Công an Mật vụ ăn, ở, học tập, chơi và sinh hoạt chung với
cán bộ Việt cộng sa lưới. Các Toán trưởng thu thập những tờ khai báo
của những cán bộ này nạp cho Ban cải tạo hay Ban nghiên cứu. Chúng tôi
không bắt công khai mà tổ chức bắt bí mật; giữ kín hoàn toàn những
trường hợp đầu hàng hay hợp tác; Đoàn chúng tôi đã tạo nên một màng
lưới phục kích, bao vây các cán bộ từ chính đường giây giao liên và cơ
sở cũ mà Cách mạng đã dày công tổ chức. Thay vì hỏi cung thông thường,
chúng tôi áp dụng phương thức mạn đàm, trao đổi, tranh luận, khai
thông tư tưởng, cởi mở với đối tượng. Nếu cần, mua chuộc, dụ dỗ chuyển
hướng. Đối với những cán bộ CS ngoan cố, chúng tôi xử dụng tập thể CS
cải tạo để khuyên nhũ lôi cuốn hoặc, theo đường lối “xa luân chiến”,
giải thích chính sách chuyển hướng, tranh luận áp đảo các thắc mắc,
phản ứng của người bị bắt…v..v..Vì thời lượng buổi nói chuyện hôm nay
giới hạn nên chúng tôi mong trở lại vấn đề phức tạp này trong một dịp
khác.

Để trả lời phần hai câu hỏi của Luật sư, ít nữa 4 quyển sách tịch thu
được trong chiến khu VC cho thấy chúng rất e sợ “chính sách mới lạ, kỳ
diệu và nguy hiểm” do ĐCTĐBMT áp dụng. Bốn quyển ấy mang tên “Đoàn Mật
vụ của Ngô Đình Cẩn (tác giả Văn Phan), Đường Thời Đại (tác giả Đặng
Đình Loan), Cuộc chiến tranh đặc biệt (hồi ký của Đinh Thị Vân) và Bội
phản hay Chân chính (tiểu thuyết hồi ký của Dư Văn Chất). Với chính
sách này, Đoàn chúng tôi bắt gọn được - vào hạ bán niên 1958 - hai
màng lưới Tình báo Chiến lược và Quân báo CS từ Bến Hải vào đến
Sàigòn.

Trong tài liệu mệnh danh “Thư vào Nam” của Tổng bí thơ Lê Duẫn gởi
tháng 7.1962 cho Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc, khi ấy Xứ Ủy Nam bộ, có
đoạn viết: “Đã có lúc ở Nam Bộ cũng như ở khu 5 (Miền Trung), tình
hình khó khăn đến mức tưởng như Cách mạnh không thể duy trì và phát
triển được.”

LLT: Vì sao (Nha sĩ dỏm và Play boy) Phan Ngọc Các, đại diện Cần Lao
cho ông N Đ Cẩn tại Miền Nam, bị bắt? Ai bắt?

DVH: Cố vấn Nhu ra lệnh cho Lê Quang Tung bắt vì Các làm tiền thương
gia Hoa kiều Chợ Lớn, Các tuyển nạp đảng viên Cần Lao lung tung. Ông
Cẩn rất bất mãn về chuyện Các bị bắt và bảo tôi thưa lại với ông Nhu
phóng thích Các. Tung là người của ông Cẩn.Tôi có cảm nghĩ Tung và
Tuyến theo dõi tôi còn (Nguyễn Văn) Y thì đố kỵ tôi.

LLT: Thái Trắng (tức Lê Văn Thái, qua đời tại San Diego) và Thái Đen
(tức Nguyễn Như Thái, biệt danh Đại tá Thanh Tùng) có làm việc cho ông
hay không?

DVH: Chỉ có Thái Đen cọng tác với tôi. Thái Trắng làm việc với Tuyến,
y là bà con vợ trước (Đặng Tuyết Mai) của Nguyễn Cao Kỳ. Không biết
tại sao Thái Đen lại mang biệt danh “Đại tá Thanh Tùng” vì y không bao
giờ có chân trong Quân đội hay đồng hoá sĩ quan. Y phụ tá cho tôi về
mặt hành chính, bị Toà lên án khổ sai chung thân, bị đưa ra Côn đảo về
tội “bắt người trái phép” và được thả ra trước tôi. Thời Đệ nhị Cọng
Hoà, hình như Nguyễn Ngọc Loan có xử dụng đương sự.

LLT: Ông có thể cho biết tên và chức vụ của vài cán bộ cao cấp Việt
Cộng bị ĐCTĐBMT bắt giữ?

DVH: Có thể cho biết hai tên:

A -Trần Quốc Hương tự Mười Hương, Ủy viên Trung ương Đảng, người chỉ
huy màng lưới Tình báo Chiến lược của Hà Nội tại Miền Nam. Y bị bắt
lối năm 1958. Chính tôi đã đưa Hương ra Huế gặp bí mật hai ông Nhu và
Cẩn ở Thuận An, trên một chuyến máy bay đặc biệt do Thiếu tá Nguyễn
Cao Kỳ lái. Hương được Hội đồng Cách Mạng trả tự do tháng 5.1964.

B- Đại tá Cộng Sản Lê Câu đã giúp tôi khám phá ra Phạm Bá Lương, Công
cán Ủy viên của Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu. Lương ăn trộm và
chuyển cho Hà Nội toàn bản chính kế hoạch kinh tế Staley-Vũ Quốc Thúc.
Tôi gài bẩy bắt Lương khi y lên máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhứt để
đi Thái Lan vì công vụ. Ông Mẫu không hay biết lý do.

LLT: Ông biết gì về đại tá Phạm Ngọc Thảo?

DVH: Trong phạm vi trách nhiệm phản gián, tôi có theo dõi Phạm Ngọc
Thảo. Tôi biết Thảo được Đức cha Thục giới thiệu vào Bảo An và Thảo có
liên hệ chính trị với bác sĩ Tuyến trong những năm tháng chót trước
cuộc binh biến 1.11.1963. Hình như Thảo có trình với Tổng thống Diệm
rằng Đoàn Công tác của chúng tôi bám sát y. Tôi có dịp thưa với Tổng
thống nên lưu ý đến Thảo vì Thảo có bà con làm việc cho Bắc Việt trong
chức vụ hệ trọng. Tổng thống có vẻ suy tư và nói: tại sao không khai
thác kinh nghiệm của Thảo trong lãnh vực ấp chiến lược và khu trù mật?

LLT: Khi xảy ra những biến động Phật giáo tại Huế năm 1963 thì ông ở
đâu? Có trách vụ gì? Xin cho biết vài ý kiến về cuộc khủng hoảng Phật
giáo.

DVH: Lúc đó tôi công tác ở Sàigòn, tôi không liên hệ trực tiếp đến vụ
Phật giáo. Tôi nhớ: Một hôm tôi vào trình việc trong Dinh (Độc Lập),
Tổng thống than phiền rằng cụ vừa kinh lý khu Dinh điền Vị Thanh về,
đi ngang một ngôi chùa, thấy cờ Phật giáo treo trên cột cao giữa sân
chùa, còn Quốc kỳ thì bắng giấy, nhỏ cở bàn tay, dán trên trụ cột
ngoài cổng, không ra thể thống gì cả. Khi về, Tổng thống có mời Đức
Khâm Mạng Toà Thánh và ông Mai Thọ Truyền (một trong hai Phó Hội chủ
Tổng Hội Phất giáo) vô cho biết tình trạng và yêu cầu lưu ý các giáo
dân phải tôn trọng Quốc kỳ theo thể thức được Chính phủ quy định. Hai
vị vừa kể hứa lưu ý giáo dân. Sau đó Tổng thống có ra lệnh miệng cho
ông Đổng lý Văn phòng Quách Tòng Đức gởi công điện nhắc các Tỉnh.
Không biết vì sao ông Đức để đến ngày chót trước Lễ Phật Đản 8.5.1963
mới gởi công điện. Tổng thống có kêu ông Đức vô hỏi, ông Đức xin từ
chức, Tổng thống nói: công chuyện đổ bể như thế, xin thôi có ích chi?

Ngoài ra, lúc bị giam chung với tôi sau ngày 1.11.1963, Thiếu tá Đặng
Sĩ, Tiểu khu trưởng kiêm Phó Tỉnh trưởng Thừa Thiên, nói với tôi rằng
ông bị oan vì được Tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân đoàn 1, Vùng 1
Chiến thuật, cho phép ông chiều ngày 8.5.1963, trước Đài Phát thanh
Huế, dùng lựu đạn hơi để giải tán biểu tình. Không biết “bàn tay bí
mật” nào đã vung một trái lưu đạn chiến đấu gây thiệt mạng cho 8 em bé
và thương tích cho nhiều người khác. Sĩ bị Toà phạt khổ sai chung
thân.

Thượng tọa Trí Quang, làm việc cho CS, đóng vai trò hàng đầu trong vụ
Phật giáo, lợi dụng mối giao hảo tốt với Cố vấn Cẩn. Sau 1975, tướng
Nghiêm không bị làm khó vì đi đêm với Bắc Việt từ trước. Cũng như bác
sĩ Lê Khắc Quyến, giám đốc Bênh viện Huế. Tổng giám mục Ngô Đình Thục
hành động nóng nảy, Cố vấn Cẩn bị bó tay.

LLT: Chuyện gì đã xảy ra cho Ông sau ngày đảo chính 1.11.1963?

DVH: Tôi bị bắt cùng với hai phụ tá là Nguyễn Tư Thái (tức Thái Đen}
và Phan Khanh. Ủy ban Điều tra tội ác - do một chính khách Hoà Hảo chủ
tọa - thẩm vấn tôi về những tố cáo làm tiền, bắt người và thủ tiêu đối
lập. Tôi còn nhớ bà góa phụ Đinh Xuân Quảng, vợ của một cựu Bộ trưởng
thời Bảo Đại, thưa tôi đã tra khảo bà. Không có bằng chứng cụ thể. Tại
Tổng Nha Công an, Tống Đình Bắc thay tôi. Y và Trần Bá Thành nắm trong
tay nhật ký memories của tôi. Thành nằm vùng cho CS. Nếu tôi có giết
bất cứ ai thì chắc chắn Tướng (Mai Hữu) Xuân đã “làm thịt” tôi rồi.
Chính y cũng đã nói với tôi như vậy.

Tuy nhiên, Toà án Cách mạng, do một Thẩm phán dân sự chủ tọa, (trong
đó đại tá Dương Hiếu Nghĩa là một thành viên}, đã xử tôi khổ sai chung
thân về tội “bắt người trái phép”. Trong vụ tảo thanh các chùa Phật ở
Saigon, chinh Cảnh sát Đô thành của Giám đốc Trần Văn Tư đã bắt các sư
sải. Đoàn CTĐBMT đâu có nhân viên để làm chuyện đó.

Trong các phiên xử khác, Tòa phạt từ tù đến khổ sai các ông Trần Kim
Tuyến, Nguyễn Văn Y, Trần Văn Tư, Hà Như Chi, Nguyễn Lương, Ngô Trọng
Hiếu, Cao Xuân Vỷ, Bùi Dzinh v.v…

Vợ tôi đã phải bán đôi bông tai 80.000 đồng và vay một số tiền khác để
trả thù lao 100.000 đồng cho luật sư Vương Văn Bắc.

LLT: Trong trường hợp nào ông và các nhân vật chế độ cũ được tự do? Vì
sao? Riêng về ông, sau đó, có bị nhà chức trách làm khó dễ gì hay
không?

DVH: Không nhớ rõ ngày tháng nào năm 1964, một buổi sáng, Chính phủ
cho ba chiếc máy bay Dakota DC3 ra Côn sơn chở tất cả tội nhân (lối
30, 40 người) về Sàigòn và chúng tôi được phóng thích. Một thời gian
ngắn sau, tôi được giấy đòi của Công an, trung tá Nguyễn Mậu dẫn tôi
đến trình diện với Tổng giám đốc Nguyễn Văn Hai. Tướng Hai đưa tôi
bằng xe jeep đến Bộ Nội vụ trình diện với tướng Trần Thiện Khiêm. Ông
Khiêm tiếp tôi nhã nhặn và “khuyên” tôi nên thủ phận làm ăn. Đây là
một lời cảnh cáo rất rõ. Để nuôi sống gia đình, mỗi ngày tôi đi mua âu
dược của các Viện bào chế, đóng thùng gởi ra Đà nẳng gởi bán tại Tiệm
thuốc của dược sĩ Hà Thị Tiểu Hương. Một hôm, năm 1968, thời Tổng
thống Thiệu, Thái Đen (tưc Nguyễn Tư Thái, một cộng sự viên cũ trong
ĐCTĐBMT), đến khoe với tôi rằng y “làm việc cho Toà Đại sứ Hoa ky’.
Bất thần, lối một tuần sau, có giấy đòi tôi đến trình diện tại Phủ Đặc
ủy Trung ương Tình báo, bến Bạch Đằng. Nơi đây, Đặc ủy trưởng Nguyễn
Khắc Bình đề nghị tôi hợp tác với Phòng Nghiên cứu về Tình báo. Tôi
xin vài ngày suy nghĩ. Tôi đến thỉnh ý Đức cha Nguyễn Văn Bình. Ngài
khuyên tôi nên nhận để tránh mọi phiền toái. Tôi trả lời với tướng
Bình tôi nhận, với điều kiện trả lại nhà cửa của tôi bị tich thâu oan
và bạch hóa hồ sơ của tôi bị bôi bẩn trong một buổi họp báo. Ông Bình
cho biết việc này cần có quyết định của Quốc hội và đòi hỏi thời gian.
Vài bửa sau, Tướng Bình sai một sĩ quan cầm đến nhà tôi 40.000 đồng,
nóí là giúp tôi trong cơn túng bấn. Để thoát mọi phiền nhiểu, tôi đành
nhận cọng tác với Phủ. Tôi được cấp một văn phòng và một thơ ký đánh
máy. Mỗi tháng tôi có phận sự đúc kết những tài liệu tình báo từ các
Quân khu và viết bản phân tích trình thượng cấp: Một việc làm chán
phèo! Tôi biết đây là một hình thức “giam lõng” và theo dõi tôi. Có
một hôm, một người xưng tên Nguyễn Văn Canh đến văn phòng để xin phỏng
vấn và lấy tài liệu soạn thảo luận án Tiến sĩ Luật. Một thời gian sau,
tôi không đến làm việc nữa. Rồi Chính phủ Miền nam sụp đổ.

(Giai đoạn Dương Văn Hiếu “bị cầm chân” tại Cục Trung ương Tình báo
được tướng Nguyễn Khắc Bình, hiện ở San Jose, xác nhận.)

LLT: Một số nhân vật đối kháng như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp và Vũ
Tam Anh bị Đệ nhứt Cọng hoà thủ tiêu. Ông có thể cho biết cơ quan nào
chịu trách nhiệm? Do lệnh của ai?

DVH: ĐCTĐBMT không liên hệ. Chúng tôi không có trách nhiệm truy nả các
phần tử đối lập. Sau 1975, một số sử liệu cho biết chính thẩm sát viên
Khưu Văn Hai và đồng bọn trong Ban Cảnh sát Đặc biệt thuộc Tổng Nha
Công An của đại tá Y đã giết N B Toàn và T C Diệp. Về Vũ Tam Anh, có
thể là do tổ chức của Lê Quang Tung. Tôi không nghĩ Tổng thống Diệm đã
ra lệnh vì ông đã từ chối đưa ra Toà Hà Minh Trí là người ám sát hụt
ông ở Ban Mê Thuột và ông cũng đã nhẹ tay với phi công Phạm Phú Quốc,
người dội bom Dinh Độc Lập với Nguyễn Văn Cử.

LLT: Ông biết gì về sự bội phản của Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ
trưởng Nguyễn Đình Thuần và Trần Kim Tuyến.

DVH: Tôi nhớ có lần tôi phúc trình với Tổng thống tin đồn về Huê kiều
Chợ Lớn mua licenses tại Bộ Kinh tế, Cụ nghe, trầm ngâm, không nói gì.

Qua ông Thuần, CIA nắm hết tin tức về nội tình Chính phủ. Cụ có vẻ rất
mến và tin tưởng ông Thuần. Về Bs Tuyến thì vào cuối 1962, ông Tuyến
hoàn toàn thất sủng, không còn quyền gì, thay thế bởi đại tá Phạm Thư
Đường. Bà Nhu rất ghét ông bà Tuyến.

LLT: Ông nghĩ sao về tin ông Nhu có qua Paris điều đình với De Gaulle
về chuyện trung lập hoá Việt Nam và gặp Xứ ủy Miền Nam, Ủy viên Bộ
chính trị Bắc Việt Phạm Hùng tại rừng Tánh Linh, Long Khánh, để thương
thuyết?

DVH: Tôi có nghe những tin ấy. Cá nhân tôi nghĩ chỉ đó là tin đồn. Một
người quốc gia quyết liệt như Tổng thống Diệm không thể bắt tay với
Cộng sản bất luận dưới hình thức nào vì Hiến pháp VN công khai phủ
nhận Xã hội Chủ nghĩa và đặc biệt, vì Cộng sản đã giết dã man anh và
cháu của Tổng thống. Đòn hiệp thương Nam-Bắc do ông Cố vấn Nhu tung ra
có thể là một cách bắt bí Hoa kỳ. Không ngờ CIA đã biết rõ nội vụ.Ông
Nhu đã chui vảo cái bẩy do chính ông giăng ra.

LLT: Nhìn lui lại, ông nghĩ rằng thời Đệ nhứt Cộng hoà, đảng Cần Lao
có thực lực trong quần chúng hay không? Việc đem tổ chức Cần lao vào
Quân đội có lợi hay hại? Ông Nhu và ông Cẩn có hoàn toàn đồng ý với
nhau về cách tổ chức và lãnh đạo đảng Cần Lao hay không?

DVH: Về mặt lý thuyết, Cần Lao dựa vào chủ nghĩa Nhân vị được ông cố
vấn Ngô Đình Nhu nghiên cứu kỹ. Đảng Cần Lao, tiếc thay, thiếu một
chính sách tuyển lựa, huấn luyện và xử dụng cán bộ hữu hiệu. Ngoài ra,
còn vấn đề kỷ luật. Đa số đảng viên được chọn trong thành phần công
chức có quyền và địa vị. Đảng không đi sâu vào đại chúng ở thành thị,
đặc biệt ở nông thôn. Các khoá tu nghiệp về chủ thuyết Nhân vị do Đức
cha Ngô Đình Thục tổ chức tại Vĩnh Long không đào sâu và giải quyết
vấn đề. Tôi có dịp thuyết trình về đề tài này trong một phiên học tập
về ấp Chiến lược ở Suối Lồ Ồ năm 1962. Sau đó, tôi có thỉnh cầu ông
Nhu, với tư cách Tổng Bí thơ Cần Lao, ban huấn lệnh nhưng không thấy
ông nói gì. Câu chuyện bỏ qua!

Ông Cẩn ít nặng về lý thuyết hơn ông Nhu. Ông Cẩn có vẻ chú trọng hơn
về vấn đề cán bộ, thực tế hơn. Trong nội bộ Cần Lao cũng có nhiều
nhóm: nhóm Bắc, nhóm Trung (của ông Cẩn), nhóm Trần Quốc Bửu (Tổng
Liên Đoàn Lao Công), nhóm Tinh Thần (Nguyễn Tăng Nguyên), nhóm Nam kỳ
Bộ (Huỳnh Văn Lang), nhóm Hà Đức Minh-Trần Văn Trai. Không thống nhứt.
Ít khi thấy Tổng thống nhắc đến đảng Cần Lao. Tổng thống để ý đến
Phong trào Cách Mạng Quốc gia. Cân Lao không có Ban Chấp hành Trung
ương. Chỉ có Văn phòng Tổng Bí Thứ (ông Nhu) gồm có 5 Phòng trực
thuộc.

Tôi không nghĩ đem Cần Lao vào Quân đội hoàn toàn có lợi. Các tướng
lãnh đóng vai trò cốt cán trong cuộc chính biến 1.11.1963 phần đông là
đảng viên Cần Lao được Tổng thống tin dùng và bị Hoa kỳ mua chuộc.

LLT: Về mặt tình báo, ĐCTĐBMT của ông, SNGCTXH của Tuyến, LLĐB của Lê
Quang Tung và Nha An ninh Quân đội của Đỗ Mậu có dẫm chân với nhau hay
không? Ông biết gì về giấc mơ của Trần Kim Tuyến - sau 1960 - cầm đầu
một Bộ An Ninh thống nhất về một mối các cơ quan cảnh sát, tình báo
chiến lược và phản gián quốc nội và quốc ngoại (gồm luôn Bộ Nội vụ)?
Vì Tổng thống Diệm từ chối đề nghị này nên ông Tuyến bất mản và làm
phản.

DVH: Tôi nghĩ: không trùng dụng, không dẫm chân. Đoàn Công tác của
chúng tôi, thật vậy, lo về phản gián, chống Cộng. Sở ông Tuyến chú
trọng đến vấn đề tình báo nội an, đối lập trong xứ. Cơ quan của Đỗ Mậu
phụ trách những gì liên hệ đến an ninh của Quân đội còn Lực lượng của
Tung, gồm có một Trung đoàn, thì có trách vụ bảo vệ Tổng thống và các
công thự. Tuy nhiên, trong những năm chót, Tung vượt quá quyền hạn của
mình. Các cơ quan.không phối hợp chặt chẻ.

Tôi không biết gì về vấn đề Bộ An ninh nêu trên. Trong giai đoạn chót,
Tổng thống, Đức Cha và hai ông Nhu, Cẩn không đồng nhứt tư tưởng, đặc
biệt trong vụ khủng hoảng Phật giáo. Tổng Giám mục Thục xen vào việc
treo cờ càng làm tình hình thêm rối ben. Mỹ quyết tâm lật đổ ông Diệm,
thủ tieu ong Nhu. Vi thế cuộc binh biến thành công. Đất nước phiêu lưu
vào hổn loạn.

Thủy Hoa Trang

Californie
Mai Luong chuyển

Tuesday, December 1, 2015

"Rắn hổ lục" F-16.



- Với hơn chiếc 4.500 phục vụ ở 25 quốc gia trên thế giới, F-16 được xem là một trong mẫu tiêm kích sử dụng rộng rãi nhất thế giới. Vậy điều gì đã giúp cho F-16 đạt được thành công đó?Tại sao tiêm kích F-16 được nhiều nước ưa chuộng?

F-16 Fighting Falcon là một máy bay chiến đấu phản lực đa nhiệm vụ do General Dynamics và Lockheed Martin phát triển cho Không quân Mỹ.

Chiều dài15 m
Sải cánh9,96 m
Giới thiệu17 tháng 8, 1978
Đơn giá14.600.000–18.800.000 USD (1998)
Chuyến bay đầu tiên20 tháng 1, 1974

Ra đời để làm máy bay đa năng

Chiến đấu cơ đa năng F-16 “Fighting Falcon” được thiết kế từ thời Chiến tranh Lạnh với những tiêu chuan linh hoạt, khối lượng nhẹ và giá thành rẻ - một máy bay đa nhiệm, hoạt động song hành cùng tiêm kích chuyên không chiến F-15 “Eagle”.
Bay lần đầu tiên vào ngày 20/1/1974, F-16 đã chính thức được giới thiệu vào năm 1978 và từ đó đến nay đã có hơn 4.500 chiếc F-16 được sản xuất và sử dụng tại hơn 25 quốc gia.

Các chương trình hiện đại hóa liên tục đã bao đảm cho F-16 đảm đương tốt các chức năng trên chiến trường hiện đại, cho phép F-16 tiếp tục hiện diện trong môi trường không chiến ngày càng dựa vào máy tính ngày nay. Tính đa năng cho phép một thiết kế máy bay tiêu chuẩn có thể đảm đương nhiều nhiệm vụ khi cần thiết cũng như tùy chỉnh các loại vũ khí, thiết bị, hệ thống theo ý muốn.

 "Rắn hổ lục" F-16.

Mặc dù được đặt tên là “Fighting Falcon”, F-16 còn được đặt biệt danh là “Viper” (Rắn hổ lục), có lẽ nhờ hình dáng nhỏ bé nhưng cực kì lợi hại của nó. Là chiến đấu cơ thuộc thế hệ thứ 4, cũ hơn so với các máy bay thế hệ 5 mới của Mỹ, nhưng giá thành quá đắt của máy bay mới khiến những chiếc tiêm kích thế hệ 4 vẫn sống tốt đến tận năm 2030!
F-16 được khai sinh từ chương trình Máy bay chiến đấu hạng nhẹ của không quân Mỹ đầu những năm 1970. Chương trình này nhằm tìm kiếm một mẫu máy bay hạng nhẹ, một người lái, một động cơ.

Thiết kế YF-16 của General Dynamics đã chiến thắng thiết kế YF-17 của Northrop để trở thành chiến đấu cơ hạng nhẹ của Không quân Mỹ với định danh F-16 “Fighting Falcon”, còn YF-17 sau đó trở thành chiến đấu cơ F/A-18 “Hornet” của Hải quân Mỹ trong một chương trình khác. Vào thời điểm được tiếp nhận, F-16 là mẫu máy bay sản xuất hàng loạt đầu tiên trang bị hệ thống điều khiển bay bằng máy tính.

"Mổ xẻ" F-16

Về thiết kế, phi công ngồi trong khoang lái có tầm quan sát rất rộng, với nắp kính buồng lái hoàn toàn không có điểm “mù”. Mũi máy bay đặt radar kết nối với hệ thống bay và vũ khí trên thân, ở đầu mút hai cánh chính gắn tên lửa đối không tầm ngắn AIM-9 Sidewinder.

F-16 chỉ có một đuôi đứng cùng với một đường lấy khí to nằm dưới bụng máy bay. Khi cần phải tăng tầm hoạt động của máy bay, ngoài việc gắn các thùng dầu phụ ở các mấu cứng dưới cánh thì F-16 có thể ốp các thùng dầu phụ dạng khí động học lên thân máy bay, giúp tăng tầm hoạt động trong khi không làm mất đi mấu cứng gắn vũ khí cũng như khả năng cơ động của máy bay so với thùng dầu phụ thông thường.

Mẫu F-16 của Israel được trang bị thêm thùng dầu phụ trên thân máy bay.

Về trang bị vũ khí, F-16 có một pháo chính M-61 Vulcan 6 nòng 20mm, bên cạnh đó là các loại vũ khí gắn dưới cánh như hỏa tiển đối không tầm trung, không đối đất, bom thông minh cũng như bom “ngu” các loại.

Thực sự, F-16 là loại máy bay đã được thử thách qua các cuộc chiến tranh, chứng minh rằng nó có thể làm tốt các nhiệm vụ từ đánh chặn đến tuần tra, không kích đến diệt radar, các quốc gia mua F-16 còn tích hợp các thiết bị của họ.

Bên cạnh bom, hỏa  tiển, F-16 còn có thể mang các thiết bị chuyên dùng cho các nhiệm vụ riêng biệt như thiết bị gây nhiễu điện tử (ECM), thiết bị dẫn bắn, cảm biến v.v…. radar tiêu chuẩn của máy bay là dòng AN/APG-66.
F-16 đã có quá trình phát triển dài từ khi ra đời. Phiên bản một chỗ ngồi là F-16A trong khi mẫu 2 chỗ ngồi là F-16B. 

Năm 1984, phiên bản nâng cấp F-16 C/D ra đời với những cải tiến như khả năng tác chiến “mọi thời tiết” và tăng khả năng không kích. Với việc có thể sử dụng loại hỏa tiễn đối không tầm trung mới *AIM-120 “AMRAAM”, F-16 giờ đây có thêm khả năng không chiến “ngoài tầm nhìn (BVR)”. Cánh đuôi đứng được mở rộng một chút về phía trước và màn hình hiển thị loại mới được lắp đặt.

                                                Bộ vũ khí của F-16.

Thông thường F-16C “Block 50” sử dụng động cơ General Electric F110-GE-100 giúp đạt tốc độ tối đa Mach 2. Tầm bay tối đa là khoảng 4.200km trong khi tốc độ len cao (lấy độ cao) là 15.240m/phút, chứng minh F-16 có khả năng đánh chặn rất tốt.

Phiên bản F-16 E/F dùng động cơ F110-132 mạnh mẽ hơn, bên cạnh đó là sử dụng radar quét mảng pha điện tử chủ động AESA AN/APG-80 và các thiết bị trong phòng lái tối tân nhất có thể. Đây cũng là căn bản cho phiên bản F-16 IN (Super Viper) tham gia cuộc thầu máy bay hạng trung MRCA của Ấn Độ nhưng đã bị loại bỏ. Phiên bản tương tự F-16I hai chỗ ngồi được sử dụng trong Không quân Israel.

Lịch sử thực chiến
F-16 đã tham gia nhiều cuộc chiến tranh từ khi ra đời, có thể kể đến như chiến dịch Bão táp Sa mạc năm 1991 khi khả năng đa nhiệm của F-16 được thể hiện bằng việc làm tê liệt hoàn toàn mạng lưới phòng không của Iraq, tiếp theo đó là canh chừng các vùng “Cấm bay” tại nước này. Sau đó F-16 được liên quân châu Âu sử dụng trong cuộc chiến tại Balkan và không kích Nam Tư.

                F-16 phóng hỏa tiễn không đối đất AGM-65 Maverick.

Mặc dù có vài sự thuyên giảm, F-16 vẫn giữ một thành phần quan trọng trong các hoạt động đường không của quân đội Mỹ hiện nay và cả tương lai gần.

Quân đội Israel sử dụng phiên bản F-16I Block 52 rất tối tân với các thùng dầu phụ khí động học và hệ thống gây nhiễu tan tiến, thiết kế hai phi công và là "nắm đấm" không kích chủ lực của quân đội nước này. Các quốc gia khác sử dụng F-16 như Bỉ, Thái Lan, Singapore, Hy Lạp… Trong đó Nhật Bản đã phát triển đấu cơ F-2 dựa trên F-16, còn Hàn Quốc thì có phiên bản KF-16 sản xuất tại Hàn Quốc.

Monday, November 16, 2015

 

Hầm chứa hạt giống chống tận thế dưới lớp băng Bắc Cực

Một hầm ngầm hạt giống toàn cầu được xây dựng ở Bắc Cực để bảo vệ các loài thực vật trên thế giới tránh khỏi bị tuyệt chủng do biến đổi khí hậu, thảm họa thiên nhiên, chiến tranh.

 
 
Theo CNN, hàng triệu hạt giống đang được lưu trữ trong một hầm ngầm, nằm sâu bên dưới lớp băng vĩnh cửu tại Svalbard, ở giữa Na Uy và Bắc Cực. Khu vực này nằm ngoài vùng ảnh hưởng của chiến tranh và nước biển dâng nên có thể bảo vệ hạt giống tránh khỏi những thảm họa môi trường. Ngoài ra, Svalbard có yếu tố địa chất ổn định, các chuyến bay diễn ra theo lịch trình thường xuyên, khiến nó tương đối dễ tiếp cận.
"Hầm ngầm được xây dựng vì sự sống còn của nhân loại. Nó giống như một nơi linh thiêng. Mỗi lần đến đây, tôi đều cảm thấy mình dường như đang đứng ở trong nhà thờ. Địa điểm này khiến chúng ta phải dừng lại và suy nghĩ", Michael Koch thuộc tổ chức Trust Crop, nói.
 
 
Trong khung cảnh ảm đạm, mờ tối của mùa thu Bắc Cực, cổng ra vào hầm ngầm giống như viên ngọc quý nhô ra khỏi tuyết và băng. Nó được xây dựng bằng bê tông góc cạnh. Ở cuối đường hầm là một cánh cửa kim loại có khối lượng lớn, sáng lấp lánh, đằng sau nó là chìa khóa để bảo vệ nhân loại trong một thế giới "hậu tận thế".
 
 
Hầm ngầm chứa 837.931 mẫu vật, ước tính khoảng 556 triệu hạt giống, được lưu trữ ở nhiệt độ không đổi -18°C nhằm bảo quản chúng khỏi hư hỏng. Lớp băng vĩnh cửu tạo thành một chiếc tủ lạnh tự nhiên. Ngay cả khi không có điện, nhiệt độ trong hầm sẽ dần ổn định ở mức -8°C, đủ thấp để duy trì chất lượng hạt giống suốt nhiều thập kỷ.
Người ta sẽ đóng gói cẩn thận các hạt giống vào một túi nhôm kín, dày ba lớp và khóa kín chúng vào thùng, trước khi vận chuyển đến hầm ngầm từ Nigeria, Ấn Độ, Mỹ, Peru và gần như mọi quốc gia khác trên Trái Đất.
 
 
Tại hầm ngầm, nhiều thùng trong tổng 2.291 thùng xếp chồng lên nhau làm từ nhựa màu xám hoặc đen. Chúng được gắn thẻ và đánh mã số để xác định ngân hàng gene nơi hạt giống gửi đến. Tuy nhiên, một vài thùng trên kệ kim loại nằm nổi bật ở giữa làm từ gỗ, với các nhãn màu, có nguồn gốc từ Triều Tiên.
 
 
Chức năng của hầm ngầm giống như khoản tiền an toàn gửi vào ngân hàng. Sau khi đặt vào bên trong, các thùng không thể bị mở ra cũng như loại bỏ bởi bất kỳ ai, ngoài cơ quan
gửi hạt giống đến khi cần thiết.
 
 
Hồi đầu tháng này, hạt giống bên trong cái gọi là "Hầm ngầm tận thế" lần đầu tiên được mở cửa và rút bỏ một số hạt giống do hậu quả của cuộc chiến tranh Syria.
Các nhà khoa học thuộc Trung tâm quốc tế nghiên cứu nông nghiệp tại Vùng Khô hạn (Dry Areas) đã phải chạy trốn khỏi căn cứ tại Aleppo, Syria tới Lebanon. Họ yêu cầu lấy lại rất nhiều hạt giống đã gửi trước đó để gieo trồng, tiếp tục những nghiên cứu quan trọng mà họ tiến hành trong nhiều thập kỷ qua.
 
 
Chủng loại hạt giống gửi đến lưu trữ ở hầm ngầm rất đa dạng, chủ yếu là cây lương thực, chẳng hạn như: ngô, lúa mì, lúa mạch, xà lách, khoai tây.
Nếu một loài bị tuyệt chủng trong tự nhiên do hạn hán, chiến tranh, lũ lụt thì đặc điểm di truyền trong hạt giống sẽ trở nên rất quan trọng. Bởi vì chúng ta có thể khôi phục lại loài này, ví dụ điển hình là loài lúa bản địa ở Australia có khả năng chống chịu sâu bệnh.
__._,_.___